Page 345 - Maket 17-11_merged
P. 345

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

               2. Về kết quả thực hiện các mục tiêu xây dựng nông thôn mới

               - Kết quả xây dựng NTM tính đến cuối năm 2020: Có 222/2.139 xã ĐBKK và ATK
           thuộc Chương trình 135 được công nhận đạt chuẩn NTM (10,4%); Có 130/1.111 xã thuộc
           85 huyện nghèo (Chương trình 30a) được công nhận đạt chuẩn NTM. Đến cuối năm 2019,
           đã có 08/64 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng ĐBKK (đạt 12,5%) và 14/30 huyện nghèo
           được hưởng cơ chế theo Nghị quyết 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn nhưng chưa có
           huyện được công nhận đạt chuẩn NTM. Cơ bản hoàn thành mục tiêu thực hiện Đề án hỗ
           trợ thôn bản ĐBKK xây dựng NTM, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu cả nước
           không còn xã dưới 05 tiêu chí và trực tiếp cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống vật
           chất, tinh thần cho người dân. Trên địa bàn thực hiện Đề án 1385, đã có: 37/363 xã ĐBKK
           được công nhận đạt chuẩn NTM (10,2%); Có 337/3.513 thôn, bản ĐBKK được công nhận
           đạt chuẩn NTM (đạt 9,6%).
               - Tồn tại, hạn chế: Kết quả đạt chuẩn NTM của các địa phương vùng ĐBKK chênh
           lệch khá lớn so với vùng miền khác của cả nước. Đến cuối năm 2020 vẫn còn 9 tỉnh có
           tỷ lệ đạt chuẩn NTM dưới 30%, khoảng 884 xã dưới 10 tiêu chí, tập trung chủ yếu ở khu
           vực Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên; 45 huyện thuộc 21 tỉnh còn “trắng xã
           NTM” (đều là huyện nghèo thuộc Chương trình 30a) và cả 85 huyện nghèo đều chưa đạt
           chuẩn các tiêu chí NTM cấp huyện. Tiến độ và kết quả thực hiện các tiêu chí NTM ở các
           địa phương vùng ĐBKK đạt thấp so với bình quân chung cả nước và còn một số khó khăn,
           hạn chế như: hạ tầng thiết yếu mặc dù đã được quan tâm, tập trung nguồn lực đầu tư nhưng
           kết quả đạt chuẩn các tiêu chí thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước, chất
           lượng tiêu chí còn thấp và không bền vững. Đặc biệt là những tiêu chí đòi hỏi nguồn lực
           đầu tư lớn, suất đầu tư cao như: giao thông từ huyện xuống xã, thủy lợi liên xã, trạm y tế,
           cơ sở vật chất văn hóa, công trình cấp nước sạch tập trung, hạ tầng công nghệ thông tin;
           chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế về phát triển lâm nghiệp, các sản phẩm đặc sản tham
           gia Chương trình OCOP chưa nhiều; sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, chủ yếu mang tính
           tự cung, tự cấp; thương mại, dịch vụ và du lịch cộng đồng đã dần được hình thành nhưng
           chưa thực sự bền vững, thiếu liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp và HTX; nhiều giá trị văn
           hóa truyền thống ở một số địa phương đang dần bị mai một, các tệ nạn xã hội (ma túy, cờ
           bạc, trộm cắp…) ở nông thôn vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp; ở một số địa phương, vai
           trò chủ thể của cộng đồng dân cư nông thôn chưa thực sự được phát huy. Do đó, chưa khơi
           dậy được tinh thần tự nguyện và nguồn lực của nhân dân trong xây dựng NTM.

               IV. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG GIAI ĐOẠN 2021-2025

               1. Quan điểm
               Trong nhiều năm qua, vùng ĐBKK là địa bàn có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển
           KTXH, đặc biệt đối với các đối tượng nghèo và đồng bào DTTS. Theo thống kê của Ủy
           ban Dân tộc, trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41

                                                343
   340   341   342   343   344   345   346   347   348   349   350