Page 346 - Maket 17-11_merged
P. 346

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

           văn bản đề cập đến chính sách hỗ trợ phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS&MN, trong
           đó có 15 đề án, chính sách trực tiếp; lũy kế đến nay có 118 văn bản, trong đó có 54 đề án,
           chính sách còn hiệu lực, trực tiếp hỗ trợ phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS&MN. Tuy
           nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, hệ thống chính sách phát triển KTXH dành cho
           vùng đồng bào DTTS&MN chưa thực sự đồng bộ; cơ chế thực thi chính sách còn thiếu
           những đổi mới mang tính đột phá; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp còn chưa chặt chẽ,
           hiệu quả…
               Đối với xây dựng NTM ở vùng ĐBKK, việc ban hành Đề án 1385 đã “tiếp sức”
           cho các địa phương bổ sung nguồn lực hỗ trợ trực tiếp cho các thôn, bản, ấp và bước đầu
           thay đổi tư duy chạy theo tiêu chí cấp xã để tập trung cho các hoạt động phát triển cộng
           đồng. Mặc dù vậy, do thời gian triển khai Đề án mới chỉ khoảng 1,5 năm, phạm vi triển
           khai còn hẹp (chỉ có 3.513 thôn, bản, ấp thuộc phạm vi Đề án, so với số thôn ĐBKK vùng
           DTTS&MN thì chỉ chiếm 17,4%) và nguồn lực đầu tư hạn chế, nên kết quả thực hiện Đề
           án đến nay chưa thực sự tạo ra những chuyển biến nổi bật trong kết quả phát triển cộng
           đồng nông thôn.

               Trong giai đoạn tới, cùng với Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững và Chương
           trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN, các nội dung của
           Chương trình MTQG xây dựng NTM cũng tập trung ưu tiên cho các vùng ĐBKK. Bên
           cạnh những yêu cầu về việc lồng ghép có hiệu quả, khắc phục những bất cập về thiếu
           đồng bộ, chồng chéo giữa các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, thì cần có sự tách
           bạch giữa các nội dung, đối tượng và phương pháp hỗ trợ, để xây dựng NTM đi theo đúng
           hướng là một chương trình phát triển cộng đồng trên cơ sở phát huy những giá trị của cộng
           đồng. Điều này này cần phải xác định rõ nhằm tránh tình trạng xây dựng NTM ở thôn,
           bản, ấp chỉ đơn thuần lại là một chương trình đầu tư, hỗ trợ mang tính “cho không” để tăng
           số địa phương đạt chuẩn NTM.
               2. Định hướng

               2.1 Về cách tiếp cận
               Kinh nghiệm thành công ở nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…
           đã chứng minh muốn phát triển cộng đồng hiệu quả, bền vững cần phải dựa trên nội lực
           và thúc đẩy tính tự chủ của cộng đồng. Nếu như các khoản đầu tư, hỗ trợ của Chính phủ
           chỉ tập trung bù đắp các nhu cầu, những khoảng trống còn thiếu hụt so với chỉ tiêu mong
           đợi, thì khi giải quyết được khó khăn này sẽ lại nảy sinh những khó khăn khác và những
           khó khăn sẽ không bao giờ kết thúc, cộng đồng sẽ luôn thụ động trông đợi vào sự hỗ trợ
           từ bên ngoài (thực tế các hoạt động hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam cũng rơi vào tình trạng
           này trong suốt nhiều năm qua, ở nhiều địa phương còn tồn tại tâm lý không muốn thoát
           nghèo để được hỗ trợ; tương tự trong xây dựng NTM cũng gặp tình trạng đầu tư dàn trải
           để bù đắp các thiết hụt về tiêu chí NTM, còn đầu tư tập trung lại dẫn đến thiếu công bằng


                                                344
   341   342   343   344   345   346   347   348   349   350   351