Page 431 - Maket 17-11_merged
P. 431

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

               Về việc trang bị các thiết bị máy móc phục vụ nghiên cứu, các đơn vị trong Bộ
           đã được trang bị tương đối đầy đủ các thiết bị tối thiểu phục vục cho công tác nghiên
           cứu. Đó là các thiết bị trong phòng thí nghiệm như: máy soi bản gen - Mỹ, máy nhân
           gen PCR; các thiết bị phòng phân tích; các thiết bị tại các trại nuôi. Phần lớn các thiết
           bị này, được đầu tư thông qua các đề tài/dự án, đặc biệt là các dự án hợp tác quốc tế.
           Tuy nhiên, các thiết bị trên thiếu tính đồng bộ, đa phần hết hạn sử dụng, hết khấu hao
           và lỗi thời.
               Trong thời qua, các đơn vị đã được Nhà nước, Bộ chủ quản quan tâm đầu tư một
           số dự án xây dựng nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng cường trang thiết
           bị nghiên cứu. Các dự án này đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng trong
           việc từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị nghiên cứu, nâng
           cao chất lượng, giảm thời gian và chi phí thực hiện các đề tài nghiên cứu; là điều kiện về
           cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng để triển khai các hoạt động đào tạo, tập huấn chuyển
           giao công nghệ và mở rộng hợp tác quốc tế của các đơn vị. Tuy vậy, sự đầu tư này còn
           quá nhỏ so với nhu cầu và đầu tư chưa tập trung, thiếu đồng bộ, còn dàn trải nên chưa
           phát huy hết hiệu quả.

               4. Hội nhập quốc tế trong phát triển KHCN
               Hội nhập quốc tế trong phát triển KHCN được hiểu là quá trình phát triển KH&CN
           quốc gia và tích hợp để trở thành bộ phận cấu thành tích cực của hệ thống KH&CN quốc
           tế với thể chế được thống nhất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho quốc gia và các cộng đồng
           khoa học của quốc gia (Bạch, 2015). Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê
           duyệt Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020. Tại thời điểm năm 2011, sự
           hội nhập về KHCN của chúng ta đã có những bước tiến tích cực với mối quan hệ hợp tác
           quốc tế với hơn 70 nước đồng thời là thành viên của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực
           về KH&CN, Ngoài ra, theo phương châm chủ động hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng
           hòa nhập với các thành viên khác của ASEAN để được tăng cường năng lực về KHCN
           (Liên Cơ, 2011)
               Trong lĩnh vực NLTS, quá trình hội nhập ASEAN được thể hiện trong các nội dung
           như thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo sự tương hợp và thừa nhận lẫn nhau
           giữa các quốc gia, xây dựng quy phạm thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (ASEAN
           GAP), xây dựng hệ thống đo lường, kiểm định với trình độ KH&CN trang thiết bị vật
           chất và con người phù hợp; xây dựng lực lượng quản lý kiểm định chất lượng hàng hóa
           dịch vụ, bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nghiên cứu các giải pháp phát triển
           nguồn nhân lực nói chung, trong đó có nguồn nhân lực KH&CN nói riêng như trao đổi
           chuyên gia, trao đổi thông tin, phát triển đào tạo, xây dựng Chương trình hợp tác nghiên
           cứu về một số sản phẩm nông sản cụ thể đã thỏa thuận (Bạch, 2015).




                                                429
   426   427   428   429   430   431   432   433   434   435   436