Page 434 - Maket 17-11_merged
P. 434

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

               Nhờ áp dụng những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến
           thủy sản đã giúp ngành thủy sản nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng yêu cầu, tạo thêm
           sức cạnh tranh và uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam tại thị trường trong nước cũng
           như xuất khẩu. Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy trì tăng trưởng liên tục trong 17 năm
           qua với mức tăng bình quân là 9,07%/năm và năng suất nuôi tăng bình quân 5,6 lần/năm
           trong giai đoạn 2011-2019. Đặc biệt, thông qua việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, chi phí
           sản xuất đã giảm đáng kể, đặc biệt là chi phí thức ăn và hóa chất. Chi phí thức ăn nuôi tôm
           từ khoảng 60% giai đoạn 2012-2014 giảm xuống còn khoảng 42% năm 2018-2019. Chi
           phí sản xuất Tôm thẻ chân trắng từ khoảng 80.000 đ/kg giai đoạn 2012-2014 còn khoảng
           65.000 đ/kg giai đoạn 2018-2019. Sản lượng thủy sản đưa vào chế biến xuất khẩu và nội
           địa khoảng 4,5 - 5 triệu tấn; tiêu thụ dạng tươi, sống khoảng 2 triệu tấn.
               NTTS Việt Nam đã vươn lên Top 5 quốc gia sản xuất và cung ứng thực phẩm thủy
           sản hàng đầu trên thế giới, đồng thời, nằm trong Top 10 ngành hàng mang lại kim ngạch
           xuất khẩu lớn hàng năm cho đất nước. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những bước
           tiến vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ mức thấp 550 triệu năm 1995 đã có những
           bước tăng trưởng mạnh mẽ qua từng năm với mức tăng trưởng bình quân 15,6%/năm. Nhờ
           có ứng dụng công nghệ chế biến, cơ cấu sản phẩm chế biến tinh, chế biến sâu trong tổng
           sản phẩm xuất khẩu đã tăng, giá trị NLTS xuất khẩu duy trì mức tăng trưởng khá, xuất siêu
           ngày càng tăng đưa nông sản Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
               1.3 Đóng góp của KH và CN trong lĩnh vực lâm nghiệp
               Về lâm nghiệp, với việc cải thiện về giống cho năng suất cao, sản lượng gỗ khai
           thác từ rừng trồng đã tăng hơn 2,5 lần, từ 8 triệu m3 năm 2013 lên 12,8 triệu m3 năm
           2015, 19,5 triệu m3 năm 2019, ước năm 2020 đạt 20,5 triệu m3 (tăng 2,56 lần so với
           năm 2013). Đóng góp lớn nhất của ngành đó là làm tăng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc
           tăng từ 40% năm 2012 lên 42% năm 2020. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, tốc độ tăng kim
           ngạch xuất khẩu đạt bình quân 8,46%/năm, kim ngạch xuất khẩu năm 2019 đạt 2,55 tỷ
           USD, tăng nhẹ so với năm 2015. Sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tăng từ 12,8 triệu
           m3 năm 2015 lên 19,5 triệu m3 năm 2019 và ước đạt 20,5 triệu m3 năm 2020 (tăng 1,6
           lần so với năm 2015).

               1.4 Đóng góp của KH và CN trong lĩnh vực thủy lợi
               Về thủy lợi, đóng góp của KHCN góp phần tăng hiệu quả sản xuất, giảm chi phí.
           Chế tạo thành công thiết bị vớt rác tự động cho các hệ thống bơm lớn với giá thành đầu
           tư chỉ bằng 40 - 50% so với thiết bị cùng loại nhập ngoại. Việc sử dụng công nghệ bơm
           mới cũng góp phần cải tạo hệ thống thủy lợi trên diện rộng sau một khoảng thời gian dài
           (50-60 năm) hệ thống thủy lợi bắt đầu được xây dựng. Những đóng góp của thủy lợi cho
           các thành tựu về cây trồng đề cập ở trên (bên cạnh yếu tố giống và canh tác cải tiến) là
           không thể phủ nhận.

                                                432
   429   430   431   432   433   434   435   436   437   438   439