Page 429 - Maket 17-11_merged
P. 429

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

           4.520/6.546 người, chiếm tỷ lệ 69,04%. Trong đó, số lượng cán bộ nghiên cứu là 4.301
           người, cán bộ kỹ thuật 942 người và cán bộ hỗ trợ là 1.231 người. Thực hiện tinh giảm
           biên chế, số lượng cán bộ đã giảm khoảng 17% so với giai đoạn 2013 – 2015. Trong đó
           cán bộ nghiên cứu nam giảm mạnh, cán bộ nữ tăng lên.

               Chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động KHCN trong ngành nông nghiệp cũng ngày
           càng cải thiện. Với việc làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, dù thực hiện tinh
           giảm biên chế nhưng số lượng các cán bộ là Giáo sư, PGS, tiến sĩ, thạc sĩ tăng so với
           giai đoạn trước. Năm 2013, khối 11 Viện thuộc Bộ có 67 giáo sư/ phó giáo sư, 698 tiến
           sĩ, 1.700 Thạc sĩ. Năm 2020, khối 11 Viện nghiên cứu có GS/PGS, 901 tiến sĩ và 2.150
           Thạc sĩ. Có sự cải thiện rõ nét trong chất lượng cán bộ trong lĩnh vực KHCN ngành NN.
           Nếu năm 2000, 60% nhà nghiên cứu chỉ có trình độ Đại học thì đến năm 2017 trình độ
           đại học của đội ngũ này là khoảng 26% (Stads và cs, 2020).
               Việt Nam có lực lượng nghiên cứu nông nghiệp trẻ nhất trong khu vực Châu Á.
           Năm 2017, 56% tổng số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp trong độ tuổi 20-30
           tuổi. Mặc dù độ tuổi trung bình của nhà nghiên cứu nông nghiệp có trình độ tiến sĩ tăng
           lên, Việt Nam vẫn không bị thách thức với vấn đề các nhà nghiên cứu có trình độ cao sắp
           đến tuổi nghỉ hưu ở nhiều quốc gia khác trong khu vực như Indonesia, Malaysia và Thái
           Lan. Lực lượng nhà nghiên cứu trẻ của Việt Nam thực sự là một cơ hội quan trọng với
           mục tiêu đào tạo sau đại học và phù hợp với nhu cầu công việc, Việt Nam sẽ có lợi thế
           lớn để xây dựng một nhóm các nhà khoa học có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu trong
           những thập kỷ tới (Stads và cs, 2020). Trên phạm vi cả nước, có tổng số 754 nhà nghiên
           cứu nông nghiệp có trình độ tiến sĩ trong năm 2017, khoảng 40% là các nhà nghiên cứu
           có chuyên môn về khoa học cây trồng, 16% trong lĩnh vực chăn nuôi và 12% trong quản
           lý nước và thủy lợi. Các cơ quan nghiên cứu và phát triển nông nghiệp của Việt Nam có
           tương đối ít các nhà nghiên cứu có trình độ tiến sĩ có chuyên ngành liên quan đến thủy
           sản, khoa học đất và kinh tế xã hội (Stads và cs, 2020).
               Trong giai đoạn 2013 – 2020, các tổ chức khoa học và công nghệ của Bộ NN và
           PTNT đã tích cực triển khai chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống tổ chức và quản
           lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập như xây
           dựng đề án tinh gọn bộ máy; Xây dựng quy hoạch mạng lưới tổ chức, Xây dựng đề án vị
           trí việc làm, Xây dựng đề án thực hiện các Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng Khoá
           XII: Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban
           chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
           cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết
           465-NQ/BCS ngày 28/02/2018 của Ban Cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và PTNT về triển
           khai Nghị quyết 19-NQ/TW.
               Đến năm 2020, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ đã hoàn thành xây dựng,
           trình Bộ phê duyệt đề án thực hiện Nghị quyết (trong đó có 11 đơn vị KHCN thực hiện


                                                427
   424   425   426   427   428   429   430   431   432   433   434