Page 425 - Maket 17-11_merged
P. 425

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

               Hiện cả nước có khoảng 60 dây chuyền xát ướt cà phê với tổng công suất thiết kế
           507.000 tấn quả tươi/năm, công suất thực tế 314.000 tấn quả tươi, đạt 61,95% so với
           công suất thiết kế. Trình độ công nghệ chế biến bảo quản cà phê đạt mức trung bình
           tiên tiến. Một số công nghệ bảo quản quả tươi bằng phương pháp chiếu xạ, nước nóng,
           khí điều biến (MAP) được nghiên cứu và chuyển giao, góp phần xuất khẩu tươi các
           sản phẩm vải, nhãn, thanh long, vú sữa…sang các thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc.
               Cơ giới hóa trong lĩnh vực chăn nuôi: Cơ giới hóa chuồng trại chăn nuôi gà các
           khâu từ cung cấp nước, thức ăn tự động, tạo tiểu khí hậu và thu gom trứng mức độ cơ
           giới hóa cao, đạt trên 90%, xử lý môi trường chăn nuôi bình quân 55%. Hộ nuôi lợn
           qui mô trang trại, công nghiệp sử dụng chuồng lồng, chuồng sàn, chuồng có hệ thống
           làm mát và sưởi ấm cho lợn con, hệ thống máng ăn, núm uống tự động đạt 72%. Đối
           với hộ chăn nuôi trâu, bò đã đầu tư máy thái cỏ, băm rơm, cây đạt 60%. Hộ chăn nuôi
           bò sữa sử dụng máy vắt sữa đạt 75%.

               Cơ giới hóa trong nuôi trồng thủy sản: Mức độ áp dụng cơ giới hóa trong nuôi
           trồng thủy sản ở Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thấp. Chỉ có một số công đoạn có
           mức độ cơ giới hóa khá như sản xuất con giống, cấp thoát nước hồ/ao nuôi, sục khí....
           Hiện một số doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ giám sát tự động môi trường hồ/ao
           nuôi và cho ăn tự động được điều khiển, giám sát từ xa.


               V. KẾT QUẢ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KHCN
           HỘI NHẬP QUỐC TẾ

               1. Đầu tư xã hội vào KHCN
               Vai trò là động lực thúc đẩy của KH&CN đối với phát triển kinh tế đã được
           Đảng và Nhà nước nhìn nhận trong các văn bản chính sách. Tuy nhiên, việc đầu tư
           cho KH&CN còn chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn, chưa xứng tầm với các
           nước trong khu vực. Đầu tư cho KH&CN trong đầu tư ngân sách chiếm tỷ lệ nhỏ so
           với GDP trong thập niên vừa qua. Về tổng thể, tổng mức đầu tư xã hội cho KHCN
           còn thấp và chưa bắt kịp xu hướng quốc tế. Điều này phản ảnh qua số liệu chi tiêu
           cho  nghiên  cứu  và  phát  triển  KHCN  của Việt  Nam  hiện  nay  (2020)  của  cả  Nhà
           nước và tư nhân đạt mức 0,53% GDP (Lê Xuân Định, 2021), mặc dù con số này đã
           được cải thiện đáng kể so với năm 2011 là 0,19% (Viện Chiến lược và Chính sách
           KH&CN (2015). Trong đầu tư cho KH&CN, tổng chi quốc gia cho NC&PT là một
           chỉ tiêu chính được sử dụng để đánh giá cường độ NC&PT của một quốc gia. Tổng
           chi quốc gia cho NC&PT/GDP đã liên tục tăng ổn định từ mức 0,44% năm 2015 lên
           0,53% năm 2019, nhờ sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư của khu vực doanh nghiệp, đặc
           biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn.




                                                423
   420   421   422   423   424   425   426   427   428   429   430