Page 420 - Maket 17-11_merged
P. 420

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

           tại Việt Nam tăng từ 53.350 ha năm 2016 lên khoảng 237.693 ha năm 2019. Cả nước có
           46/63 tỉnh thành đang thực hiện sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ
           là 17.168 người. Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia
           xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Phong trào sản
           xuất Hữu cơ chứng nhận PGS đã được phát triển từ 2008 ở một số địa phương như Hà
           Nội, Hà Nam, Hoà Bình, Bến Tre… phù hợp với quy mô nông hộ nhỏ và có triển vọng
           mở rộng. Đề án nông nghiệp hữu cơ đến 2030 đã được phê duyệt và diện tích hữu cơ sẽ
           tăng trong thời gian tới theo mục tiêu của đề án.
               Kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp: Mô hình kinh tế tuần hoàn trong
           sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là hướng tới sự phát triển bền vững và giảm thiểu ô
           nhiễm môi trường. Phát triển kinh tế tuần hoàn là cơ hội lớn để đạt mục tiêu kinh tế, xã
           hội, môi trường và giúp ứng phó với biến đổi khí hậu. Mô hình kinh tế tuần hoàn trong
           nông nghiệp là một mô hình tối ưu hóa các nguồn lực với quá trình sản xuất theo chu
           trình khép kín, chất thải và phế, phụ phẩm của quá trình này là đầu vào của quá trình sản
           xuất khác thông qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý.

               Chuỗi giá trị bền vững: Liên kết chuỗi giá trị nông sản đang hình thành và phát
           triển bền vững ở Việt Nam, sản xuất có liên kết chuỗi giá trị mang lại nhiều lợi ích cho
           nông dân, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp và cộng đồng. Hiện nay, cả nước có 20,3%
           tổng số doanh nghiệp nông lâm thủy sản có thực hiện liên kết; 35,5% tổng số HTX nông
           lâm thủy sản có liên kết với doanh nghiệp, nông dân và HTX khác; 54,4% số HTX có
           liên kết cung ứng sản phẩm dịch vụ đầu vào; 21,4% liên kết tiêu thụ sản phẩm và dịch
           vụ đầu ra; 13,5% liên kết góp vốn đầu tư sản xuất và 10,7% liên kết theo hình thức khác.
           Tuy nhiên số HTX ứng dụng CNC mới chiếm khoảng 10% số HTX NN. Đã có 619,3
           ngàn hộ tham gia liên kết sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn.

               IV.  KẾT  QUẢ  PHÁT  TRIỂN,  ỨNG  DỤNG  VÀ  CHUYỂN  GIAO  CÔNG
           NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
               1. Phát triển và ứng dụng công nghệ cao

               Phát triển NN CNC là một chiến lược của Chính phủ được hỗ trợ bởi các chính sách
           tổng thể theo vùng. Theo Quyết định 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 phê duyệt Quy hoạch
           tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến
           năm 2030. Đến năm 2018 cả nước có 4 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ caođược công
           nhận, trong đó có 2 vùng trồng trọt và 2 vùng thủy sản. Ngoài 4 vùng này, đến năm 2019 cả
           nước ước tính có khoảng 690 vùng nông nghiệp ứng dụng CNC chưa được công nhận, trong
           đó có 458 vùng trồng trọt (66,4%), 135 vùng chăn nuôi (19,6%), 87 vùng thủy sản (12,6%)
           và 10 vùng lâm nghiệp (1,4%), tập trung chủ yếu ở ĐBSCL (159 vùng), ĐBSH (133 vùng)
           và Tây Nguyên (111 vùng) (Báo cáo của Viện Quy hoạch và TKNN, 2019).


                                                418
   415   416   417   418   419   420   421   422   423   424   425