Page 50 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 50

Năm  1939,  chiến  tranh  thế  giới  lần  thứ  hai  bùng  nổ.
           Tháng 11/1940 phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Từ đó,
           Nhân dân ta phải sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp và
           phát xít Nhật. Các chính sách bóc lột dã man tàn bạo của
           chúng đã đưa đến tai họa khủng khiếp cho Nhân dân ta.
           Tháng 3/1945, hơn 2 triệu người dân Việt Nam chết đói. Ở
           Thượng Phúc cuối năm 1944 đầu năm 1945 dân tình xao xác,
           phần lớn là hết thóc ăn, các loại gia súc, gia cầm đều giết mổ
           hết. Từ tháng Giêng trở đi, hàng trăm người già, trẻ, trai, gái
           đã đi đào rau má và tìm các loại rau củ để ăn. Trong những
           ngày này, người bán lúa non, kẻ bán quần áo, nhiều người
           không còn gì đã mang cả bát hương, bài vị thờ tổ tiên đi bán.
           Trung tuần tháng 02 trở đi, Thượng Phúc đã có người chết
           đói, đến tháng 3 số người chết đói đã rất nhiều, nhiều gia
           đình chết cả nhà như: gia đình cụ phó Hành (xóm 16) chết
           27 người gồm tất cả con cháu trong nhà, gia đình cụ Trùm
           Tuấn (xóm 5) chết 16 người, gia đình cụ Tiên (xóm 1) chết 10
           người, gia đình cụ đồ Mưu (xóm 2) có 10 người thì 8 người
           chết... Trong thảm họa này, toàn xã có 2.000 người chết đói .
                                                                        (1)
           Trong cảnh chết chóc đau thương của Nhân dân, lòng hận
           thù bè lũ bán nước và cướp nước càng được khắc sâu.

             Dưới  chế  độ  phong  kiến,  sự  phân  hóa  xã  hội  ở  Thượng
           Phúc ngày càng sâu sắc, đặc biệt từ khi thực dân Pháp đô hộ
           nước ta, mâu thuẫn giữa Nhân dân ta với bọn đế quốc, phong
           kiến càng trở nên gay gắt quyết liệt. Có áp bức, có đấu tranh,
           bằng kinh nghiệm của bản thân trong cuộc sống, người dân
           Thượng Phúc thấy rằng chỉ có đoàn kết đấu tranh chống lại
           bọn cường hào ác bá thì mới tự bảo vệ được mình.


           (1)  Theo số liệu thống kê năm 1956 của đội cải cách ruộng đất.
                                                                        49
   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55