Page 48 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 48

Xuân Thượng vốn là vùng đất thuần nông, đời sống của
           người dân hoàn toàn phụ thuộc vào ruộng đất. Trong chế
           độ phong kiến, xã có hai loại ruộng: công điền và tư điền,
           ruộng công điền quân cấp cho nam giới từ 18 tuổi trở lên mỗi
           suất 5 sào và cứ 3 năm cấp lại một lần. Hình thức là như
           vậy, nhưng thực chất bọn hào lý đã dùng nhiều thủ đoạn để
           chiếm điền. Các loại ruộng tốt chúng đều giành lại cho bút
           điền, lễ điền, phe giáp... mỗi tên lý dịch còn gian lận từ 5 - 7
           suất cấy ăn không. Bằng những thủ đoạn tinh vi, chúng dần
           biến ruộng công thành ruộng tư làm cho diện tích công điền
           ngày càng thu hẹp.

             Theo sổ địa bạ đời Gia Long (1803 - 1805), diện tích toàn
           xã là 1.065 mẫu 6 sào 3 miếng trong đó:
             - Ruộng công điền là 719 mẫu 4 sào 6 miếng, gồm 11 xứ
           đồng; Tì Bà, Thượng Tiến, Phụ Thổ, Sạ Hải, Cha Vạn, Đại
           Vạn, Đại Điền, Cây Gạo, Lục Châu, Ngoại Đê, Phù Sa.

             - Ruộng tư điền là 204 mẫu 2 sào 6 miếng, gồm 6 cánh
           đồng: Bắc Làng, Đông Làng, Tiền Làng, Thổ Trạch, Bồng
           Điền, Sách Điền.

             - Diện tích hồ, đầm, sông, ngòi, Thần từ, Phật tự 141 mẫu
           9 sào 1 miếng.
             - Các loại ruộng khác (ruộng họ, phe giáp, tế điền...) 79
           mẫu 1 sào.

             Đến trước năm 1945, số ruộng đất công để cấp cho dân
           chỉ  bằng  1/2  diện  tích  canh  tác  trong  xã.  Với  chính  sách
           ruộng đất phản động nói trên, người dân chưa bao giờ có đủ
           ruộng để cấy cày, một số gia đình vì quá túng bấn đã phải
           cầm cố số ruộng đất ít ỏi của mình để lấy tiền nộp sưu thuế,

                                                                        47
   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53