Page 48 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 48
CHƯƠNG II
TỔ CHỨC ĐẢNG RA ĐỜI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
ĐẤU TRANH CHỐNG CHẾ ĐỘ THỰC DÂN,
PHONG KIẾN, GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930 - 1945)
I. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẦU
THẾ KỶ XX
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp tiến hành tổ chức lại
bộ máy hành chính để kiểm soát chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở.
Để thực hiện chính sách cai trị, nô dịch và bóc lột, trên cơ sở bộ
máy cai trị cũ, thực dân Pháp củng cố, tạo ra một hệ thống tay
sai mới ở nông thôn. Cấp tỉnh có Tổng đốc, Tuần phủ, Án sát;
cấp huyện có Tri huyện. Ở tổng có Chánh tổng đứng đầu. Ở xã
có Tiên chỉ, Thứ chỉ, Chánh, Phó hương hội, Lý trưởng, Phó lý,
Chưởng bạ, Hộ lại, Xã tuần... Mặt khác, chúng tiến hành xây
dựng đường sá, nhà kho phục vụ cho việc khai thác tài nguyên
khoáng sản, bóc lột người bản xứ bằng các loại thuế khóa nặng
nề, phu phen, tạp dịch... Do đó, người nông dân bị đẩy vào cảnh
bần cùng hóa một cách nhanh chóng.
Được quan thầy dung túng, các hào lý, địa chủ tìm mọi cách ra
sức thâu tóm ruộng đất vào tay mình và bóc lột sức lao động làm
thuê của nông dân. Điển hình như địa chủ Vũ Ngọc Hoánh, thôn Lục
Thủy, xã Xuân Hồng, đã chiếm tới 1.000 mẫu ruộng của Nhân dân
Xuân Trường, Giao Thủy và 3.000 mẫu ruộng của Nhân dân Hải
Hậu. Địa chủ Nguyễn Duy Hàn ở làng Hành Thiện chiếm tới 42
mẫu ruộng, gần hết cánh đồng tiền làng (42/45 mẫu). Một số chức
sắc lợi dụng tôn giáo được sự hậu thuẫn của thực dân Pháp, Nhà
Chung cũng ra sức chiếm đoạt ruộng đất. Tòa Giám mục Bùi Chu
và giáo xứ Phú Nhai đã chiếm nhiều ruộng đất của hàng chục
làng xã. Riêng Tòa Giám mục Bùi Chu chiếm hơn 1.500 mẫu... Do
ruộng đất bị chiếm đoạt trắng trợn nên phần lớn nông dân không
có ruộng hoặc thiếu ruộng, buộc phải làm thuê, cấy rẽ cho địa chủ.
47