Page 43 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 43

Thời phong kiến, Xuân Trường có 5 Tiến sĩ, 4 Phó bảng, trên
            130 cử nhân. Người mở đầu cho sự nghiệp vẻ vang về khoa cử
            của Xuân Trường là cụ Đào Minh Dương, đỗ Tiến sĩ năm 1550,
            đời vua Mạc Phúc Nguyên. Tiếp theo là cụ Phạm Thế Lịch, người
            ở Quần Mông (tức Lạc Quần, Xuân Ninh), đỗ Cử nhân khoa Mậu
            Tý (1828), đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Kỷ Sửu
            (1829). Từ năm 1856 đến năm 1915, thí sinh nhiều tỉnh của Bắc
            Kỳ đều đến thi Hương ở Nam Định. Trong các kỳ thi, cả 3 vị đỗ
            đầu (trong địa bàn huyện) đều là người Hành Thiện. Đó là Đặng
            Xuân Bảng đỗ Tiến sĩ năm 1856; Nguyễn Ngọc Liên, Nguyễn
            Hữu Dương đỗ Tiến sĩ năm 1889 . Rất nhiều làng trong huyện
                                               (1)
            có các nhà nho đỗ Cử nhân, Tú tài. Riêng thời nhà Nguyễn và
            Pháp thuộc, Xuân Trường có tới hàng trăm người đỗ Cử nhân,
            Tú tài, như: Ông Đặng Văn Bính làng Hành Thiện, đỗ Hương
            cống  khoa  Tân  Mão  (1831);  ông  Đặng  Kim  Toán  làng  Hành
            Thiện, đỗ Cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) và đỗ Phó bảng khoa
            Mậu Thân (1848); ông Đặng Đức Địch làng Hành Thiện, đỗ Cử
            nhân năm Mậu Thân (1848), đỗ Phó bảng năm Kỷ Dậu (1849);
            ông  Nguyễn  Thế  Huyền  làng  Hành  Thiện,  đỗ  Cử  nhân  khoa
            Mậu Thân (1848); ông Nguyễn Âu Chuyên làng Hành Thiện, đỗ
            Giải nguyên năm Kỷ Mão (1879), đỗ Phó bảng năm Giáp Thân
            (1884);  ông  Đặng  Quang  Toản  làng  Hành  Thiện,  đỗ Cử nhân


            (1)  Thi Hương để chọn Cử nhân, thi Hội để chọn Tiến sĩ, thi Đình để phân hạng
            Tiến sĩ (Theo các sách: Đăng khoa lục, đặc biệt là Các nhà khoa bảng Việt
            Nam (1075 - 1919), Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006;
            Các nhà khoa bảng Nam Định (Thời phong kiến), Trần Mỹ Giống, Nxb. Quân
            đội nhân dân, Hà Nội, 2017 cho biết: Từ năm 1921, thời vua Minh Mệnh, đỗ
            thi Hương gọi là Cử nhân (trước gọi là Hương cống). Thi đỗ 3 trường gọi là
            Tú tài (trước là gọi là Sinh đồ). Khoa thi Hội đầu tiên của triều Nguyễn mở
            vào năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh 3 (1822), lấy đỗ 8 Tiến sĩ. Từ khoa
            thi năm Kỷ Sửu (1829), quy định mỗi khoa lấy thêm những người có số điểm
            gần sát với hạng Tiến sĩ (Đệ tam giáp), nhưng tách riêng thành một bảng
            phụ, gọi là Phó bảng. Ngay từ khoa thi đầu tiên, vua Minh Mệnh đã không
            cho ai đỗ Trạng nguyên, về sau lấy đó làm định lệ. Lệ đó được thực hiện cho
            đến khoa thi cuối cùng. Người đỗ đầu cả 3 khoa thi (Hương, Hội, Đình) gọi là
            Tam nguyên. Người đỗ đầu khoa thi Hương gọi là Giải nguyên (Tỉnh nguyên,
            Hương nguyên). Người đỗ đầu khoa thi Hội gọi là Hội nguyên. Người đỗ đầu
            khoa thi Đình gọi là Đình nguyên. Đình nguyên dưới thời Nguyễn có thể là
            Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp hoặc Tiến sĩ tùy thuộc vào mỗi khoa thi).
            42
   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48