Page 38 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 38
quyết tâm vươn lên trong cuộc sống. Bên cạnh đó là tấm lòng từ
bi, nhân ái, đề cao đức hy sinh, cứu giúp; tôn trọng người hiền tài,
người có công với quê hương, đất nước; giúp đỡ người khó khăn
hoạn nạn; kính trên nhường dưới, tình nghĩa bạn bè, thủy chung
vợ chồng, kính trọng ông bà, tổ tiên...
Trong cuộc sống, trừ những ngày lễ, tết, còn bình thường việc
ăn mặc rất giản dị. Bữa ăn thường đơn giản chỉ cần cơm, rau
(canh), cá, cà. Khi có khách, hay làm cỗ thì có nhiều món ngon và
nhiều thịt, cá hơn. Các loại khoai, dong, sắn... cũng được đưa vào
thực đơn trong các bữa ăn, nhất là khi mất mùa lúa .
(1)
Quần áo mặc thường ngày của người dân lao động thường được
dùng từ vải bông trắng, tơ tằm, đem nhuộm nâu, xanh hoặc đen
(gụ, chàm, thâm) rồi tự khâu may thành quần áo. Phụ nữ thường
mặc áo tứ thân, áo nới vạt, áo cánh, quần nái, ruột tượng, xà tích,
khăn vuông và yếm. Nam giới thường mặc áo lương, the, quần
trúc bâu, khăn xếp... Những khi lễ hội, quần áo của cả nam và
nữ tham dự hội có thể đa dạng, phong phú và màu sắc đẹp hơn.
Nhiều người vận “áo đỏ”, “yếm thắm”, “áo the xanh”, khăn là,
váy lĩnh, áo hàng tàu, khăn nhiễu tím, bít tất tơ, ô lục soạn, quần
vân, áo xuyến... đi dự hội.
Đàn ông khăn nhiễu đội đầu
Đôi giày da láng, khăn trầu đỏ hoe
Đàn bà yếm đậu vàng hoe
Hàm răng đen nhức, váy lê thẹn thùng ...
(2)
Cũng như nhiều vùng quê khác, việc hôn nhân khi trai lớn thì
gả vợ, gái lớn thì gả chồng. Tâm lý chung đều muốn chọn được
người chồng hay vợ khỏe mạnh, giỏi giang, tháo vát, có phẩm
chất đạo đức tốt, nghĩa tình trọn vẹn. Các thủ tục trong cưới xin
thường phải qua các công đoạn như mai mối, dạm hỏi, đưa dâu,
lại mặt. Tuy nhiên, thời phong kiến cũng không tránh khỏi
(1) Văn hóa trong bữa ăn có sự kết hợp giữa chung và riêng như bát đũa
riêng từng người, nhưng các thức ăn và nước chấm có thể chung cả gia
đình. Việc mời mọc xã giao khi ăn cũng thể hiện tôn ti thứ bậc riêng trong
mỗi gia đình và nét văn hóa chung của cộng đồng.
(2) Địa chí Nam Định, sđd, tr.631-632.
37