Page 38 - bia TLDH dai cuong-đã gộp
P. 38
31
Bài 13
Ông Đào Văn T kết hôn với bà Nguyễn Thị X và sinh được hai người
con là Đào Văn L (sinh năm 1993) và Đào Thị A (sinh năm 2001) Đến tuổi
trưởng thành, anh Đào Văn L kết hôn với chị Lê Ngọc B và sinh ra ĐàoVăn S
và Đào Văn D.
Ngày 22/5/2012, do bị ốm nên ông T lập di chúc để định đoạt số tài sản
của mình. Trong di chúc, ông T chia 1/2 (một phần hai) số tài sản của mình cho
anh Đào Văn L và 1/4 (một phần tư) cho chị Đào Thị A.
Ngày 12/5/2021, do bị bệnh nặng nên ông T đã chết.
Hỏi: Chia di sản thừa kế của ông T biết rằng:
- Năm 2011, ông T được hưởng thừa kế của bố mẹ ông T 600 triệu đồng.
- Tài sản chung của ông T và bà X là 1.2 tỷ đồng.
Gợi ý trả lời
- Xác định di sản của ông T:
Căn cứ khoản 1 Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về tài sản
của vợ, chồng:“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38,
39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài
sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”
Như vậy, 600 triệu đồng mà ông T được hưởng thừa kế trong thời kỳ hôn
nhân là tài sản riêng của ông T.
Di sản của ông T bằng tài sản riêng + 1/2 tài sản chung của vợ chồng
Di sản của ông T là = 600 triệu đồng + 1.2 tỷ đồng / 2 = 1.2 tỷ đồng.
- Theo di chúc của ông T di sản được chia như sau:
L = 1.2 tỷ đồng /2 = 600 triệu đồng.
A = 1.2 tỷ đồng/ 4 = 300 triệu đồng.
Phần di sản còn lại là: 1.2 tỷ đồng - (600 triệu đồng + 300 triệu đồng) =
300 triệu đồng.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thừa
kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với: “Phần di sản không được định
đoạt trong di chúc”.