Page 33 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 33
Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế.”
- Người thừa kế là cá nhân
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Nếu người thừa kế sinh ra sau thời điểm mở thừa kế thì phải đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết và sinh ra phải còn sống.
Cá nhân chưa được sinh ra thì chưa được coi là chủ thể xã hội đồng thời cũng
chưa phải là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nhưng pháp luật quy định trường
hợp này là nhằm bảo lưu quyền của cá nhân được sinh ra sau khi người để lại di
sản chết với điều kiện người đó đã thành thai trong thời gian người để lại di sản
còn sống. Quy định này nhằm để bảo vệ quyền của người thừa kế, nhất là quyền
của người con đã thành thai khi người cha còn sống và ra đời sau khi người cha
đã chết. Như vậy, trong những trường hợp cụ thể thì thai nhi sẽ được hưởng thừa
kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật (theo hàng thừa kế hoặc thừa kế thế
vị) hoặc được hưởng thừa kế theo cả hai hình thức này.
Theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 30 về quyền được khai sinh, khai
tử thì: “Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì
phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì
không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.”
Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì bắt
buộc phải được đăng ký khai sinh và khai tử theo quy định tại Nghị định
123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Như vậy, trẻ em sinh ra sau hai mươi bốn giờ
được xác định là còn sống và có quyền hưởng di sản thừa kế.
Hiện nay, pháp luật đã thừa nhận sinh con bằng phương pháp khoa học kéo
theo vấn đề phải xác định người thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị
định 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo, việc gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi được thực hiện trong các trường hợp
sau đây:
“Người chồng hoặc người vợ trong những cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh;
Người có nguyện vọng muốn lưu giữ cá nhân;
Người tình nguyện hiến tinh trùng, hiến noãn, hiến phôi;
31