Page 30 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 30

Như vậy, tài sản bao gồm các loại khác nhau và không bị hạn chế về số

          lượng, giá trị. Một cá nhân có thể sở hữu nhiều loại tài sản khác nhau. Tài sản của
          công dân trong giai đoạn hiện nay bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
          nhà ở, máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá

          quý, ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản gửi tổ chức tín dụng bằng tiền
          Việt Nam, ngoại tệ, các trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền

          gửi, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền
          đòi nợ, quyền nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng,
          quyền đối với phần vốn góp trong các doanh nghiệp… mà công dân sở hữu.


               Người để lại di sản thừa kế là người có tài sản sau khi chết để lại cho người
          còn sống theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc (theo các quy định về thừa
          kế theo di chúc tại Chương XXII) hay theo quy định của pháp luật (theo các quy

          định về thừa kế theo pháp luật tại Chương XXIII).

               Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối
          với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định

          đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi
          cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người lập di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực

          hiện quyền định đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể
          nhờ người làm chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến

          chỗ ở của mình để lập di chúc...

               Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ
          định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Vì thế, họ có

          quyền chỉ định bất cứ ai có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế, thậm chí
          cũng có thể là Nhà nước hoặc tổ chức nào đó. Đồng thời, người để lại di sản thừa
          kế có quyền phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản

          trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định
          người giữ di chúc; người quản lý di sản, người phân chia di sản.

               Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi “ý nguyện”

          cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế
          hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào.

               Hiệu lực của di chúc chỉ phát sinh khi người lập di chúc chết. Do vậy, khi

          còn sống người lập di chúc vẫn có thể sửa đổi nội dung của di chúc đã lập. Theo
          quy định tại khoản 2, Điều 640 BLDS năm 2015: "Trường hợp người lập di chúc

          bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như
          nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ


                                                     28
   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35