Page 101 - Giáo lý Hôn Nhân
P. 101

Trong mái trƣờng đó, cha mẹ chính là những “thày cô” đƣợc tín nhiệm và yêu thƣơng
                  hơn cả, vì cha mẹ là những ngƣời sống gần con cái, hiểu biết con cái và yêu thƣơng
                  con cái hơn hết.

                  3. Phải dạy những gì?

                        Mục tiêu của của việc giáo dục Kitô giáo là giúp con cái trở thành ngƣời và trở
                  thành ngƣời con Thiên Chúa. Khuôn mẫu của con ngƣời hoàn hảo đó là Chúa Giêsu,
                  Đấng là Con Thiên Chúa đã hạ sinh  làm  ngƣời để nên mẫu mực cho chúng ta noi
                  theo 217[3] .
                        Trong việc giáo dục con cái, phải để ý đến mặt nhân bản cũng nhƣ mặt đức tin.

                         3.1. Giáo dục nhân bản
                         Nền giáo dục nhân bản phải bao gồm cả ba phƣơng diện: đức, trí và thể dục.
                           Thể dục: dạy con vệ sinh sạch sẽ, giữ gìn sức khoẻ.

                           Trí dục: trau dồi cho chúng về học vấn, về nghề nghiệp, để chúng có thể
                             sống tự lập, xây dựng tƣơng lai cuộc đời mình, góp phần xây dựng xã hội.
                           Đức dục: trừ khử những thói hƣ tật xấu và tập luyện những tính tốt. Nhất
                             là bốn nhân đức cột trụ làm nền tảng cho những nhân đức khác: khôn ngoan,
                             công bằng, tiết độ và dũng cảm.

                             . Khôn ngoan: biết khiêm nhƣờng lắng nghe và mau mắn vâng lời; biết
                               suy nghĩ cân nhắc trƣớc khi làm và khi làm xong sẽ dừng lại một chút để
                               kiểm điểm và rút kinh nghiệm; biết xem xét và chuẩn bị kỹ để chu toàn
                               mọi bổn phận thật chu đáo cũng nhƣ để ứng xử đúng trƣớc những tình
                               thế mới.
                             .  Công  bằng:  Chăm  chỉ  làm  tròn  bổn  phận;  yêu  thƣơng  mọi  ngƣời,  tôn
                               trọng  của  cải  và  quyền  lợi  của  họ;  tôn  trọng  của  chung  và  biết  lo  cho
                               công ích; luôn thành thật trong lời nói và việc làm; không bao giờ gian
                               lận.
                             . Tiết độ: Có kỷ luật, đúng giờ giấc và chừng mực trong những điều nhỏ
                               mọn hằng ngày, trong ăn uống cũng nhƣ giải trí; tập cân nhắc đúng bậc
                               thang giá trị theo tinh thần Kitô giáo và biết chọn lựa cách ý thức. Biết
                               tiết kiệm. Dạy cho con cái biết giá trị của lao động cũng nhƣ giá trị thực
                               sự của của cải vật chất. Hƣớng dẫn con cái chọn thú vui giải trí cũng nhƣ
                               bè bạn
                             .  Dũng  cảm:  Biết  can  đảm  đứng  vững  trong  điều  tốt;  biết  chấp  nhận
                               những sai lỗi của mình, tự tin và tự lập, biết lãnh nhận trách nhiệm và
                               hậu quả do công việc mình đã làm.
                        Đối với ngƣời Việt Nam, những đức tính ấy đƣợc diễn tả qua khái niệm “trung
                  dung”, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Những đức tính này giúp ta biết yêu thƣơng, có lòng
                  biết ơn, cộng tác và nâng đỡ ngƣời khác, nói năng cũng nhƣ cƣ xử lễ độ và tế nhị,
                  biết suy nghĩ cân nhắc và biết tạo nên sự tin cậy lẫn nhau.
                        Riêng đối với nữ giới cần thêm: Công, dung, ngôn, hạnh.

                        Giáo dục giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến


           217[3]
                x. GLHT 459; 520
           Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình / Ủy Ban Giáo Lý HĐGM.VN                                                101
   96   97   98   99   100   101   102   103   104   105   106