Page 195 - Di san van hoa An Duong
P. 195

Phiên âm:       Nguyên khí chung lưu, Đinh lưỡng tướng
                                   Văn tinh vĩnh ký, Việt thiên thu

                   Dịch nghĩa:     Tích tụ khí thiêng, triều Đinh sinh hai tướng

                                   Văn chương còn mãi, nước Việt vẫn lưu danh.

                   Trên chắn phong của hai cửa nách cung cấm tạo khung chữ nhật, trong
             khung ô có hai chữ Hán lớn, phía bên tả: “Như tại” (如在), bên hữu: “Chi hiển”

             (之顯). Bốn chữ trên có nghĩa: cung cấm nơi đây phụng thờ các bậc thánh linh ứng.
                   Đình Văn Cú trải qua thăng trầm của lịch sử, binh lửa chiến tranh nhưng

             vẫn còn bảo tồn được một số cổ vật có giá trị về lịch sử, mỹ thuật, tiêu biểu là:

                   - Long ngai, bài vị, gồm 3 bộ. Bài vị đặt trong long ngai, được bài trí trong
             cung cấm. Long ngai, bài vị tạo tác bằng gỗ tốt, có hai bộ tạo tác tương tự nhau,
             một bộ cao, to hơn và được chạm khắc cầu kỳ tinh xảo hơn. Ba bộ long ngai, bài
             vị được chế tác và được chạm khắc tinh xảo với các đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá

             thiêng khá đẹp. Qua thần hiệu ghi trong bài vị, hai bộ tương tự như nhau là thờ
             Ngài Đỗ Quang và Đỗ Minh, bộ lớn hơn thờ vị thần Thiên quan. Long ngai, bài vị
             có niên đại tạo tác thế kỷ XIX.

                   - Đại tự, treo tại tòa ống muống, đại tự làm bằng gỗ tốt, nền sơn đỏ chạm nổi
             4 chữ Hán lớn sơn mầu vàng: “Hà nhạc nhật tinh” (河嶽日星), có nghĩa: Công đức

             của các vị thánh to lớn như núi sông, sáng tỏ như mặt trời, như các vì sao. Dòng
             thượng khoản trên đại tự ghi Tự Đức, Kỷ Mão, xuân, tức là đại tự được cung tiến

             vào đình mùa xuân năm Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức (1879).
                   - Đại tự, treo tại nhà ống muống làm bằng gỗ, trang trí diềm xung quanh là

             dải hoa văn hoa dây chữ triện lá giắt. Đại tự nền đỏ chạm nổi bốn chữ Hán lớn,
             sơn mầu vàng: “Hoán nhiên văn vật” (煥然文物), nghĩa là các vị Thành hoàng làm
             cho mọi vật tốt đẹp, rực rỡ lên. Dòng thượng khoản trên đại tự ghi: Tự Đức, tam

             thập niên, nghĩa là đại tự được tạo tác, cúng tiến vào niên hiệu Tự Đức, năm thứ
             30 (1877).

                   - Bia đá, kiểu bia dẹt, bằng đá nguyên khối, trán bia hình bán nguyệt, dưới
             trán bia khắc nổi bốn chữ: “Bản tổng bi ký” (本緫碑記), nội dung bia khắc tên các vị
             tiên Nho, tiên hiền của tổng Văn Cú tại văn từ của tổng. Bia đá chúng tỏ tổng Văn

             Cú trước đây có văn từ được đặt tại xã Văn Cú. Bia có lạc khoản bị mờ, nhưng qua
             hoa văn và chữ khắc trên bia, có thể xác định bia được dựng vào đầu thế kỷ XX.



              195   DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG
   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199   200