Page 361 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 361
Phaàn IV: Kinh teá 361
Từ năm 2001 - 2010
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XI, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Yên
Hưng lần thứ XVII, trong 5 năm (2001 - 2005), Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân huyện tập trung chỉ đạo tiếp tục quy hoạch diện tích đất đai trên địa bàn
nhằm mở rộng diện tích gieo trồng, khai thác triệt để diện tích hoang hóa đưa vào sản
xuất. Xác định nông hóa thổ nhưỡng, khẳng định chất đất từng vùng phù hợp với từng
loại cây, con để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý. Cấp ủy chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu giống, mùa
vụ. Mở rộng diện tích cấy lúa lai, lúa thuần năng suất cao, trà xuân muộn, mùa sớm,
mùa trung và diện tích gieo trồng cây vụ đông. Chỉ đạo quy hoạch các vùng trọng điểm
thâm canh lúa và rau màu tập trung, thực hiện dồn đổi ruộng đất, thành lập mạng lưới
khuyến nông viên ở cơ sở. Chỉ đạo xây dựng một số cơ chế đầu tư cho kiến thiết thủy lợi
nội đồng, trợ giá giống lúa, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân. Với những chủ
trương đúng đắn và kịp thời cùng với cơ chế chính sách phù hợp, làm cho nhận thức của
nông dân về chuyển dịch cơ cấu giống, mùa vụ có chuyển biến tích cực, đáng kể. Diện
tích cây vụ đông tăng nhanh, từ 1.000 ha (năm 2000) lên 1.504 ha (năm 2005); diện tích
lúa xuân muộn chiếm 59,2%, tăng 7 lần so với năm 2000; diện tích lúa mùa sớm, mùa
trung tăng 2,7 lần so với năm 2000; giống lúa năng suất cao chiếm 87,9% diện tích, tăng
gấp 2,46 lần so với năm 2000; năng suất lúa cả năm đạt 49,3 tạ/ha, tăng 8,8 tạ/ha so
với năm 2000, trong đó có 10 xã đạt năng suất trên 100 tạ/ha/năm. Năm 2005, tổng sản
lượng lương thực đạt 55.000 tấn, tăng 5.000 tấn so với mục tiêu đề ra. Giá trị sản xuất
từ trồng trọt đạt 159,256 tỷ đồng (năm 2000) tăng lên 225,401 tỷ đồng (năm 2004) và
250,020 tỷ đồng (năm 2005).
Song song với trồng trọt, chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chất lượng, hình
thành một số trang trại sản xuất đa canh quy mô vừa và nhỏ. Các con giống, vật nuôi có
giá trị kinh tế cao như bò lai Sind, lợn hướng nạc, vịt lai, gà siêu trứng... tiếp tục được
đưa vào chăn nuôi. Năm 2005, toàn huyện có 1.646 con trâu, 5.796 con bò (tăng 2.766
con so với năm 2000), 58.813 con lợn (tăng 11.359 con so với năm 2000), 445.444 con gia
cầm (tăng 60.227 con so với năm 2000). Giá trị sản xuất từ chăn nuôi đạt 54,712 tỷ đồng
(năm 2000) tăng lên 142,240 tỷ đồng (năm 2005).
Bảng 1.6: Số lượng bò, lợn, gia cầm huyện Yên Hưng từ năm 2001 - 2005
Đơn vị: con
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Bò 2.996 3.339 3.787 4.994 5.796
Lợn 59.679 55.977 57.029 57.540 58.813
Gia cầm 344.447 439.661 447.773 431.998 445.444
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Yên Hưng năm 2010
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Yên Hưng lần thứ XVIII,
Huyện ủy tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, theo
hướng sản xuất hàng hóa; khuyến khích nhân dân đưa những giống cây mới cho năng