Page 448 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 448
448 Ñòa chí Quaûng Yeân
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (tháng 4/1959) về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp đã quy định: “Ruộng đất của xã viên, về nguyên tắc phải đưa toàn bộ vào
hợp tác xã và thống nhất sử dụng. Nhưng để chiếu cố sinh hoạt riêng của xã viên và để
họ sử dụng được sức lao động của họ trong lúc nhàn rỗi, cần để lại cho mỗi xã viên một
ít đất không quá 5% diện tích bình quân đầu người trong xã để họ trồng rau, trồng cây
ăn quả, chăn nuôi” . Hơn nữa, sau khi hoàn thành cải tạo nông nghiệp, người nông dân
(1)
vẫn được phép tự do bán nông sản trên thị trường thông qua phần kinh tế phụ 5% dành
cho họ, nhưng với điều kiện là phải làm xong nghĩa vụ. Do đó, trong kinh tế của nông
dân vẫn có một tỷ lệ hàng hóa được phép lưu thông tự do. Với thương nhân, vai trò của
họ tuy có nhưng không lớn. Vì tính chất đó nên Nhà nước chưa bao giờ có chủ trương xóa
bỏ chợ nông thôn và vẫn tồn tại hợp pháp .
(2)
3. Thương mại - dịch vụ Quảng Yên từ năm 1986 - 2023
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã đánh dấu bước chuyển biến
cơ bản, mở ra cơ hội đổi mới mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội. Kinh tế thương nghiệp
huyện Yên Hưng và tỉnh Quảng Ninh cùng cả nước chuyển dần sang phương thức hạch
toán kinh doanh, mở rộng hoạt động ngoại thương. Trong hoạt động cung ứng và dịch
vụ, xóa bỏ cơ chế bao cấp qua phân phối, thực hiện cơ chế một giá. Cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần xuất hiện, tạo ra một trạng thái mới trên thị trường toàn tỉnh.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ huyện Yên Hưng đã khẩn trương chỉ đạo ngành
thương nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thủy hải sản, lâm sản và làm hàng gia công tại địa
phương. Những năm 1987 - 1988, nhiều mặt hàng có giá trị đã được xuất khẩu với số
lượng ngày một tăng như chiếu cói, thảm cói, mành, sản phẩm thêu, lạc nhân, hải sản,
lâm sản. Mặc dù còn khó khăn về thị trường, song Công ty Thủy sản II trên địa bàn Yên
Hưng đã năng động tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu sang thị trường một số nước Tây
Âu và Nhật Bản. Tổng kim ngạch xuất khẩu 2 năm (1987 - 1988) đạt 2,3 triệu rúp - đô la,
bình quân tăng 7,2% so với năm 1986 . Hiệu quả thu được từ hàng xuất khẩu phản ánh
(3)
sự vận dụng đúng đắn chương trình hàng xuất khẩu của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn
tại Yên Hưng.
Bước sang năm 1991, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự
khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động không nhỏ
đến kinh tế - xã hội trong nước. Không phải là trường hợp ngoại lệ, ngành thương mại của
Yên Hưng cũng chịu ảnh hưởng lớn khi các thị trường xuất khẩu chủ lực đột ngột mất, làm
ngưng trệ sản xuất một loạt hợp tác xã thêu ren, dệt thảm, sản xuất cói... Nhiều công ty, xí
nghiệp và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp giải thể khiến hàng trăm lao động mất việc làm.
Song, vượt lên khó khăn trở ngại đó, ngành thương mại ở Yên Hưng đã được chấn chỉnh
từ tổ chức bộ máy đến phương thức sản xuất, kinh doanh. Trong 5 năm (1991 - 1995), khu
vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ đã tạo được việc làm cho
3.843 lao động , góp phần thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế lớn do Đảng đề ra.
(4)
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, sđd, tr.324-325.
(2) Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II, sđd, tr.454.
(3) Theo Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng Yên: Lịch sử Đảng bộ thị xã Quảng Yên (1930 - 2020),
sđd, tr.269.
(4) Theo Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng Yên: Lịch sử Đảng bộ thị xã Quảng Yên (1930 - 2020),
sđd, tr.291.