Page 464 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 464
464 Ñòa chí Quaûng Yeân
8 Xã Yên Lập 8 quan 6 tiền 2 hộc 22 bát
9 Xã Hoàng Lỗ 8 quan 24 đồng tiền 30 bát
10 Xã Trạp Khê 8 quan 4 tiền 24 đồng tiền 2 hộc 2 bát
11 Thôn Yên Cư 6 quan 7 tiền 24 đồng tiền 30 bát
12 Xã Hưng Học 34 quan 47 đồng tiền 30 hộc 17 bát 3 vốc
13 Xã Phong Lưu 341 quan 9 tiền 51 đồng tiền 529 hộc 33 bát 9 vốc 7 nắm
14 Xã Vị Dương 147 quan 1 tiền 12 đồng tiền 155 hộc
15 Xã Lưu Khê 54 quan 9 tiền 20 đồng tiền 42 hộc 28 bát 7 vốc
16 Xã Quỳnh Biểu 20 quan 9 tiền 12 đồng tiền 8 hộc 28 bát
17 Xã Hải Yến 32 quan 21 đồng tiền 19 hộc 13 bát 3 vốc
Sau khi Triều Nguyễn ký Hiệp ước Pa-tơ-nốt (06/6/1884), thực dân Pháp lập ra một
khoản ngân sách chung cho cả Trung Kỳ và Bắc Kỳ, gọi là ngân sách Trung - Bắc Kỳ (hay
ngân sách bảo hộ). Nguồn ngân sách này được thu từ tất cả các loại thuế ở Bắc Kỳ, các
khoản thu từ thuế gián thu và một nửa tổng số thuế quan ở Trung Kỳ theo thỏa thuận
của Hiệp ước năm 1884 . Căn cứ vào nguồn thu được quy định, thực dân Pháp bắt tay
(1)
vào tổ chức thu thuế ở Bắc Kỳ. Tuy nhiên, do chưa kiểm soát được các vùng đất đai, bao
gồm cả dân cư nên các chính sách thuế đưa ra trong thời kỳ này vẫn chưa có quy định cụ
thể, rõ ràng, mang nặng tính chắp vá nhằm phục vụ cho việc chi tiêu trước mắt. Các sắc
thuế cũ của Nhà Nguyễn tiếp tục được thực dân Pháp tận dụng, bao gồm: thuế thân, thuế
ruộng đất, thuế thương chính... và người dân có thể nộp thuế bằng tiền hoặc hiện vật .
(2)
Trong số các loại thuế, nặng nhất là thuế thân, bị tăng liên tục hằng năm đối với cả
dân nội đinh và ngoại đinh. Nội đinh từ 2,5 đồng/người (năm 1987, trong đó 2 đồng để
chuộc 20 ngày lao dịch) lên 3,1 đồng (năm 1901); 3,6 đồng (năm 1903); 3,75 đồng (năm
1904) và 4,5 đồng (năm 1908). Bên cạnh đó, người dân còn phải chịu một khoản thuế
phụ thu của thuế thân (từ 15% - 31% của thuế chính ngạch). Những khoản thuế phụ
thu này cùng với các sắc thuế chính ngạch lại càng nặng nề hơn với người dân khi bị bọn
quan lại, cường hào lợi dụng và lạm bổ nhiều hơn.
Ở thị xã Quảng Yên, mặc dù là trung tâm của tỉnh Quảng Yên nhưng nguồn thu chủ
yếu của ngân sách địa phương vẫn dựa vào các sắc thuế, đánh vào đầu người dân và các
sản phẩm hàng hóa, nhất là thuế ruộng đất. Ở huyện Yên Hưng, với 5 tổng, 41 làng,
15.660 người nộp thuế và 15.741 mẫu đất chịu thuế, số thuế thu được từ thuế thân đinh,
thuế điền thổ trong một năm qua số liệu thống kê của tỉnh Quảng Yên là 60.865 đồng
Đông Dương .
(3)
Ngoài ra, nguồn tài chính ở thôn, xã được quản lý dưới hình thức quỹ làng, hình
thành từ Nghị định ngày 22/5/1927 do chính quyền cai trị ban hành. Tuy nhiên, ở tỉnh
Quảng Yên cũng chỉ có 15 làng (trong tổng số 91 làng) đã được cải cách thành lập được
(1) Theo Hiệp ước năm 1884, tiền thuế trực thu ở Trung Kỳ và nửa tổng số thuế quan sẽ thuộc ngân
khố của triều đình Huế.
(2) Hồ Tuấn Dung: Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ 1897 đến 1945, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2003, tr.19.
(3) Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 2, sđd, tr.498.