Page 466 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 466

466    Ñòa chí Quaûng Yeân



               “Tuần lễ vàng” đã chứng minh tinh thần yêu nước cao cả, lòng tin mạnh mẽ của nhân
               dân đối với Đảng và cách mạng, sẵn sàng đóng góp sức người và sức của để xây dựng,
               bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.

                  Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành một số sắc lệnh bãi nhiều loại thuế khác nhau
               cho nhân dân như: bãi bỏ thuế môn bài chính dưới 50 đồng, bãi bỏ thuế thổ trạch, giảm
               thuế điền thổ 20% ... Nhờ thực hiện những biện pháp kịp thời, nhân dân trên địa bàn
                                   (1)
               huyện phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất.

                  Đất nước chưa được ổn định, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược nước ta. Nằm ở
               vị trí chiến lược, thị xã Quảng Yên và huyện Yên Hưng trở thành mục tiêu quan trọng
               của thực dân Pháp trong cuộc tiến công chiếm đóng Bắc Bộ và vùng Đông Bắc. Sau khi
               chiếm đóng khu vực Quảng Yên, thực dân Pháp đã lập bộ máy hội tề, tiến hành bình
               định và ra sức thu thuế, cướp bóc tài sản của nhân dân tại các vùng đã chiếm đóng. Tuy
               nhiên, chúng đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân. Trong
               cuộc chiến đấu chống bình định gay go quyết liệt, phong trào sản xuất, đóng thuế nông
               nghiệp, ủng hộ kháng chiến vẫn lên cao. Năm 1951, tỉnh Quảng Yên được xếp loại khá
               nhất về công tác thuế nông nghiệp của Liên khu Việt Bắc, thành tích ấy có sự đóng góp
               to lớn của nhân dân vùng sau lưng địch .
                                                         (2)
                  Từ năm 1955 - 1975
                  Sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, từ giữa năm 1955, Nhà nước đã chuyển
               từ chế độ thống nhất quản lý thu chi sang chế độ phân cấp quản lý tài chính. Các địa
               phương được Nhà nước giao cho một số quyền hạn nhất định trong việc dự toán độc lập,
               được giao các khoản thu và bảo đảm nhiệm vụ chi tiêu nhất định theo sự chỉ đạo tập
               trung thống nhất của Trung ương. Đến năm 1957, chế độ phân cấp quản lý tài chính này
               được kết hợp giữa phân cấp chỉ tiêu kế hoạch nhà nước với phân cấp quản lý tài chính.
               Về việc thu thuế, từ cuối năm 1954, Nhà nước ban hành hệ thống thuế mới được áp dụng
               thống nhất cho toàn miền Bắc với nội dung mở rộng diện nộp thuế và điều chỉnh tăng
               thuế suất đối với các sắc thuế trước đó. Theo nội dung trên, thuế nông nghiệp được sửa
               đổi để phù hợp với các đối tượng nộp thuế, thực hiện ưu đãi đối với khu vực tập thể, hợp
               tác xã nông nghiệp; thuế công thương nghiệp và các loại thuế khác cũng được sửa đổi,
               bổ sung áp dụng thống nhất. Trong 6 tháng đầu năm 1959, huyện thu được 222.802,28
               đồng thuế công thương nghiệp, 13.914,25 đồng thuế rượu và 115.047,74 đồng tiền bán
               khoán lâm sản, vượt kế hoạch đề ra .
                                                     (3)
                  Từ năm 1960 trở đi, chế độ thu quốc doanh và chế độ trích gộp nộp lợi nhuận thay
               chế độ thuế doanh nghiệp và thuế lợi tức được Nhà nước ban hành, áp dụng trong các xí
               nghiệp quốc doanh. Với chế độ thuế này, các xí nghiệp quốc doanh có thể phát huy tính
               chủ động, sáng tạo và tập trung thu vào khâu sản xuất hơn . Ở huyện Yên Hưng, chính
                                                                             (4)
               sách này đạt được kết quả nổi bật, nhất là ngành vận tải thuyền buồm của xã Hà An.


               (1)  Đinh Thị Thu Cúc (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, tập 10, sđd, tr.59.
               (2)  Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng Yên: Lịch sử Đảng bộ thị xã Quảng Yên (1930 - 2020), sđd,
               tr.113-114.
               (3)  Theo Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Yên Hưng: Báo cáo về tình hình 6 tháng đầu năm 1959, tr.13.
               (4)  Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 2, sđd, tr.502.
   461   462   463   464   465   466   467   468   469   470   471