Page 632 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 632
632 Ñòa chí Quaûng Yeân
Thực phẩm: Ngoài các loại cây lương thực, ở Quảng Yên còn nhiều loại thực phẩm
khác bổ sung vào bữa ăn hằng ngày của người dân như thịt, trứng gia súc, gia cầm,
thủy hải sản... Các loại vật nuôi để lấy trứng, thịt thường được nuôi theo quy mô hộ gia
đình hoặc theo quy mô trang trại, trong đó vịt phát triển mạnh ở xã Liên Vị và xã Tiền
Phong, gà phát triển mạnh ở phường Tân An, gà ở xã Hoàng Tân nổi tiếng thơm ngon,
chắc thịt cùng các loại lợn, bò, trâu. Bên cạnh đó còn nguồn đạm đến từ các loại thủy
hải sản như: tôm, cá, hàu, ngán, hà, trai... được nuôi ở các ao, hồ, khu vực ven biển hoặc
đánh bắt trên các ngư trường.
Trải qua thời gian, cư dân Quảng Yên đã tận dụng tối đa những sản vật có trong tự
nhiên để chế biến và tạo ra những món ăn độc đáo, mang bản sắc riêng của vùng biển
đảo. Cách chế biến món ăn tinh tế mà không cầu kỳ, mùi vị đa dạng và phong phú.
2. Các món ăn đặc sản tiêu biểu ở Quảng Yên
Thị xã Quảng Yên không những là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, lễ
hội mà còn nổi tiếng với những đặc sản có giá trị dinh dưỡng, mang màu sắc riêng của
dân cư nơi đây.
2.1. Bánh gio
Bánh gio (hay còn được gọi là bánh tro) là món quà quê dân dã, mộc mạc của cư dân
vùng đất Quảng Yên. Bánh gio được làm quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào vụ gặt
từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau, đây cũng là thời điểm người dân làm bánh
gio để phục vụ tết Nguyên đán. Nhân dân Quảng Yên ưa chuộng bánh gio vì bánh ăn
mát, tiêu hóa nhanh, tốt cho sức khỏe. Những địa phương có nghề làm bánh gio nổi
tiếng là: phường Phong Cốc, phường Phong Hải, phường Yên Hải, phường Minh Thành,
xã Cẩm La...
Làm bánh gio phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu đến cách
làm. Nguyên liệu chính quyết định đến hương vị của bánh gio là gạo nếp và tro. Gạo để
làm bánh phải là loại nếp cái hoa vàng hay nếp nhung của vụ mùa mới, nhặt hết những
hạt tẻ lẫn vào, vo gạo bằng nước thật sạch, để ráo. Gạo vo xong được hong khô rồi đem
ngâm với nước tro khoảng chừng 5 giờ. Nước tro để ngâm gạo ở Quảng Yên cũng rất đặc
biệt, không giống như các địa phương khác. Nếu như ở Đắc Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội,
người dân ngâm gạo vào nước tro được đốt từ cây dền gai, rơm nếp, vỏ bưởi; ở Phú Yên là
tro của cây tầm gửi, bưởi, cây vừng hay ở Yên Lãng, Thanh Hóa là tro của rơm nếp, bẹ
cau nếp, quả vừng và măng tre... thì riêng ở vùng đảo Hà Nam, Quảng Yên, người dân
lại dùng cây giá (một loài cây sống ở rừng ngập mặn chỉ có ở ven sông Bạch Đằng) đốt
rồi lấy tro ngâm gạo để làm bánh. Gạo sau khi ngâm được vớt ra, để ráo rồi trộn cùng
ruột gấc tạo nên hương vị ngọt bùi và màu sắc bắt mắt cho bánh.
Lá để gói bánh là lá dong tẻ, lá to, xanh, được rửa sạch, luộc kĩ nhiều lần cho phai bớt
mùi hăng rồi lau thật khô trước khi gói. Lá được xếp thành nhiều lớp, lớp trong cùng là
lá dong luộc mềm, lớp bên ngoài là lá dong xanh xếp đan nhau cuộn lại thành khuôn. Khi
gói bánh, tay trái cầm khuôn lá, tay phải bốc gạo nếp đã trộn với hạt gấc, lòng bàn tay