Page 653 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 653

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    653



               những gì (thường gồm gạo, gà và tiền), việc thách cưới ít hay nhiều phụ thuộc vào mỗi
               gia đình. Sau khi hai nhà bàn bạc thêm bớt và thống nhất lễ vật thách cưới, nhà trai sẽ
               định ngày dẫn lễ cưới. Nhiều trường hợp, do nhà gái thách cưới quá lớn, gia đình nhà
               trai không đáp ứng đủ mà chàng trai và cô gái không đến được với nhau.
                  Nộp cheo

                  Xưa kia, người con gái khi đi lấy chồng phải nộp cho làng một số tiền, hiện vật để làng
               công nhận việc kết hôn của mình (trên thực tế, việc nộp cheo thường do gia đình nhà trai
               nộp thay). Người xưa quan niệm “nuôi lợn thì phải băm bèo, cưới vợ thì phải nộp cheo
               cho làng”, cheo là nghĩa vụ bắt buộc và có giá trị pháp lý như giấy đăng ký kết hôn ngày
               nay. Mỗi làng có một quy định nộp cheo riêng là tiền, xôi gà, cau trầu và có khi là hiện
               vật như gạch. Khoán ước làng Cốc (nay thuộc phường Phong Cốc) có quy định mỗi đám
               cưới phải nộp cho làng 3 đồng hoặc 300 viên gạch . Tiền hoặc hiện vật nộp cho làng sẽ
                                                                   (1)
               được sử dụng vào việc công ích như: sửa sang đình làng, làm đường, xây giếng... Cheo
               có hai loại là cheo nội (áp dụng cho con gái lấy chồng cùng làng) và cheo ngoại (áp dụng
               cho con gái lấy chồng làng khác), thường thì cheo ngoại phải nộp cao hơn cheo nội.

                  Xin dâu, đón dâu và lễ cưới

                  Trước ngày cưới, cha mẹ hai bên đi xem, chọn ngày lành tháng tốt, giờ đẹp để tổ chức
               lễ cưới. Dựa trên quan niệm “cưới vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”, hai
               gia đình đi xem sẽ căn cứ vào tuổi cô dâu, tránh cưới vào năm tuổi Kim Lâu. Nhiều
               gia đình kỹ lưỡng còn xem chòm sao ngày ấy nếu xung khắc với tuổi cô dâu, chú rể thì
               tránh. Sau khi ấn định ngày cưới, hai bên gia đình tiến hành mời cưới họ hàng hai bên,
               bạn bè thân thiết. Ở các làng xã, người mời cưới thường tới nhà người thân, bạn bè để
               “mời mồm” cho thân tình, gần gũi. Tại phường Cộng Hòa trước đây, nhiều gia đình còn
               có tục cưới 2 lần (rước dâu 2 lần) nếu cô dâu, chú rể sinh vào năm Đinh, Nhâm, Quý với
               mong muốn việc hôn nhân của những người tuổi này sẽ thuận lợi hơn.

                  Trước ngày cưới một ngày, họ nhà trai thường dựng rạp, trang trí nhà cửa, thuê bàn
               ghế, chuẩn bị cỗ cưới, đồng thời sắm sửa các mâm lễ cưới, chuẩn bị người thay mặt họ nhà
               trai thưa chuyện cùng bà mối. Ngày dựng rạp cũng là ngày mổ lợn làm cỗ kính cáo gia
               tiên, nhà gái xin cho con xuất giá về nhà chồng, nhà trai xin phép đón con dâu để có cháu
               nối dõi tông đường. Tối hôm đó, bà con lối xóm, bạn bè thân hữu, họ hàng thường đến nhà
               trai, nhà gái chúc phúc, uống nước, ăn trầu, trò chuyện tới khuya. Tại làng Yên Trì trước
               đây (nay thuộc xã Hiệp Hòa) ngày dựng rạp còn được gọi là ngày giậm giường với các nghi
               thức giống với tục dựng rạp ở các khu vực khác, ngoài ra gia đình còn làm cỗ mời họ hàng,
               bạn bè bằng hữu . Cỗ đám cưới được chuẩn bị chu đáo, tùy theo từng địa phương mà có
                                 (2)
               những món ăn khác nhau như: phường Cộng Hòa có xôi, thịt, cơm, cá, canh; phường Yên
               Giang nổi tiếng về việc làm cỗ lớn với 12 đĩa, 4 bát được chia thành 2 tầng...

                  Ngày hôm sau, đúng giờ khởi hành, đoàn nhà trai đưa lễ cưới và lễ xin dâu sang nhà
               gái. Đi đầu là bà mối, ông chú, ông bác, bà dì, bà cô của chú rể rồi đến các cô gái, chàng trai

               (1)  Phạm Quốc Long: Lịch sử văn hóa xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn
               Thạc sĩ ngành Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên, 2015, tr.90.
               (2)  Xem Lê Đồng Sơn (Chủ biên): Văn hóa Yên Hưng - Lịch sử hình thành và phát triển, sđd, tr.289.
   648   649   650   651   652   653   654   655   656   657   658