Page 654 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 654

654    Ñòa chí Quaûng Yeân



               đội mâm lễ, tiếp đến là chú rể và người thân, bạn bè cùng đi đón dâu. Gia đình nhà trai
               sẽ ủy thác cho một người cô, người dì hoặc chị em thân thiết của chú rể đi đưa lễ cưới và
               đón dâu. Người được chọn phải là người tốt phúc, nhanh nhẹn, gia đình êm ấm đủ nếp,
               đủ tẻ (có con trai, con gái). Lễ vật nhà trai mang tới to hay nhỏ phụ thuộc vào gia cảnh
               từng gia đình, thường bao gồm: mâm trầu cau, chè thuốc; mâm bánh giầy gồm 5 chiếc
               trên dán chữ song Hỷ; mâm lễ mặn thường là đầu lợn và rượu. Bên nhà gái cũng chuẩn
               bị đón tiếp nhà trai, chuẩn bị người đón lễ và người đưa cô dâu về nhà chồng. Khi đoàn
               đưa lễ tới, nhà gái sẽ sắp xếp người đón, đưa lễ vào sập đặt trước bàn thờ gia tiên và
               mời họ nhà trai an tọa. Đại diện họ nhà trai hoặc bà mối sẽ thưa chuyện với nhà gái, xin
               phép tổ tiên và gia đình họ nhà gái nhận lễ và cho phép đón dâu. Nhà gái có người đại
               diện đáp lễ, mời bố cô dâu thắp hương kính cáo tiên tổ chứng lễ, cho phép con rể và con
               gái thắp hương xin phép gia tiên nhà gái cho cô dâu về nhà chồng. Sau đó, anh em họ
               hàng, bạn bè thân thiết họ nhà gái cho tiền phát vốn cho cô dâu với lời chúc hạnh phúc,
               làm ăn phát đạt. Rồi hai gia đình ngồi nói chuyện, ăn trầu, uống nước.

                  Khi hương cháy được hai phần ba, nhà gái cử người lại lễ cho nhà trai. Lễ lại mỗi thứ
               bằng một phần ba, một phần tư lễ vật mà nhà trai mang tới. Người xưa quan niệm lễ lại
               không được dùng dao cắt vì dùng dao dễ chia lìa lứa đôi, vì vậy nhà gái thường lại lễ cau,
               trầu, bánh giầy. Tại một số địa phương như phường Phong Cốc và Phong Hải, nhà gái
               và nhà trai dùng tay xé miếng thịt lễ để thể hiện tình cảm khăng khít giữa hai gia đình.

                  Đến giờ đã chọn, đại diện nhà trai xin phép nhà gái đưa cô dâu về nhà chồng. Tại xã
               Phong Lưu xưa (nay là các phường Phong Cốc, Phong Hải, Yên Hải và xã Cẩm La) có
               tục lệ tổ chức đưa lễ cưới và đón dâu vào giờ Dần (từ 3 giờ đến 5 giờ sáng). Người xưa
               quan niệm, đám rước dâu đi đường nếu không may sẽ bị quỷ thần quở trách dẫn đến
               những điều kém may mắn. Giờ Dần là giờ Quan Sát của các quan đi tuần vì vậy cô dâu
               sẽ tránh được những điều không tốt .
                                                     (1)
                  Khi đoàn đón dâu về tới nhà trai, cha chú rể thắp hương một mâm lễ mặn kính cáo
               tiên tổ xin nhận con dâu, cháu dâu. Cô dâu, chú rể vái gia tiên sau đó làm lễ tơ hồng
               cầu khấn ông Tơ, bà Nguyệt phù hộ cho hai vợ chồng ăn ở với nhau trọn tình trọn nghĩa.
               Thực hiện lễ tơ hồng xong, cô dâu, chú rể ra ngoài ra mắt họ hàng, mời trầu, mời thuốc
               quan khách, bạn bè. Hai bên gia đình ăn trầu, nói chuyện vui vẻ, người thân họ nhà
               trai tiếp tục ra tiền phát vốn cho đôi vợ chồng trẻ kèm theo lời chúc phúc làm ăn phát
               tài, phát lộc. Tại phường Phong Cốc, phường Phong Hải và xã Cẩm La trước đây có tục
               cô dâu về nhà chồng sẽ đi gánh nước mang về với quan niệm nước tượng trưng cho sự
               mát mẻ, suôn sẻ.

                  Trong ngày cưới, nhiều làng thuộc thị xã Quảng Yên có tục trải giường. Sau khi làm
               lễ gia tiên, nhận tiền mừng cưới và chúc phúc của họ hàng, cô dâu, chú rể sẽ vào phòng
               chứng kiến lễ trải giường. Người được chọn trải giường là người đàn bà trung tuổi, phúc
               hậu, khỏe mạnh, vợ chồng song toàn, có nếp có tẻ (có con trai, con gái). Khi hai vợ chồng
               vào phòng ngủ, người đàn bà sẽ trải chiếc chiếu mới lên giường, vừa trải vừa chúc hai
               người con đàn cháu đống, có con trai, con gái, mẹ tròn con vuông.

               (1)  Xem Lê Đồng Sơn (Chủ biên): Văn hóa Yên Hưng - Lịch sử hình thành và phát triển, sđd, tr.301.
   649   650   651   652   653   654   655   656   657   658   659