Page 678 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 678

678    Ñòa chí Quaûng Yeân



                  Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo vẫn giữ hai phái là Đạo giáo thần tiên (thờ
               Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan
               Thánh Đế Quân) và Đạo giáo phù thủy. Bên cạnh đó, kết hợp với tín ngưỡng dân gian,
               Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức Thánh Trần, Mẫu
               Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín
               ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng chứa đựng những yếu tố
               huyền bí của Đạo giáo thông qua nghi lễ để thần linh “nhập đồng” ở các ông đồng, bà
               đồng... Không chỉ hòa quyện với các tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn có sự hòa hợp với
               Phật giáo, biểu hiện ở việc trong chùa không chỉ có tượng Phật mà còn có tượng Thánh.
                  Ở Quảng Yên hiện nay không có đạo quán chuyên thờ thần linh Đạo giáo, tuy nhiên ở
               các làng xã, ở một số đền, chùa, nhân dân kết hợp thờ thần, Phật với thờ Mẫu. Các thầy
               bói, tướng số, bà đồng và những câu chuyện linh dị về các thầy phù thủy sai khiến âm
               binh, trừ tà ma, yểm bùa chú... đến nay vẫn còn được lưu truyền trong dân gian.

                  4. Công giáo
                  Công giáo (còn gọi là Ki tô giáo hay Thiên Chúa giáo) được khởi phát từ vùng đất
               Jerusalem thuộc Tây Á từ thế kỷ I, du nhập vào Việt Nam từ những thập niên đầu của
               thế kỷ XVI do các giáo sĩ dòng Francisco của Bồ Đào Nha mà người đầu tiên giảng đạo
               là nhà truyền giáo Inikhu .
                                           (1)
                  Giữa thế kỷ XVI, cư dân vùng Quảng Yên lần đầu tiếp xúc với các nhà truyền giáo
               phương Tây. Ngày 01/5/1583, đoàn thuyền của cha cố Diego de Orofesa ghé tới một
               cửa biển ở Quảng Yên. Trong vùng lúc này giặc cướp quấy nhiễu nên thấy thuyền lạ,
               dân chúng khua trống mõ, đem giáo mác ra đánh. Tới nơi, thấy các cha cố không giống
               những kẻ cướp nên dân làng đối xử tử tế. Tuy nhiên, các linh mục bị buộc phải bỏ thuyền
               lên ở tại một nhà tranh trên bờ, có tuần đinh canh gác, sau đó có lệnh đưa lên kinh đô
               yết kiến Vua Mạc. Lúc ra khơi để vào cửa sông, thuyền gặp bão lớn, dạt vào đảo Hải
               Nam, tất cả đều bị bắt dẫn lên Quảng Châu, sau đó được trả tự do .
                                                                                     (2)
                  Từ thế kỷ XVII, các tu sĩ người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha theo thuyền buôn tới
               truyền giáo tại các xã Yên Trì, Đông Khê, Xuân Ninh, Trà Cổ, Hà Lai, Trạp Khê. Giai
               đoạn này, số lượng giáo dân chưa nhiều, việc quản lý truyền giáo của chính quyền
               chặt chẽ, là vùng xa trung tâm trong khi các tín ngưỡng dân gian, đạo Nho, đạo Phật,
               đạo Lão đã ăn sâu trong đời sống tinh thần của nhân dân nên Công giáo không dễ
               dàng phát triển.

                  Thế kỷ XIX, đạo Công giáo chính thức xây dựng được cơ sở tại làng Yên Trì (nay là xã
               Hiệp Hòa, thị xã Quảng Yên). Theo truyền thuyết của làng Yên Trì, hồi đó trẻ con sinh
               ra hay bị ma bắt (chết). Nhờ có ông Phan-xi-cô vào giảng đạo nên đuổi được ma. Ông
               thường giảng đạo ở một đượng đất cao, dân làng ra đượng ấy (gọi là Đượng ông Thánh)
               nghe giảng đạo. Ông còn chữa bệnh cho dân làng bằng cách cho uống “nước phép”. Từ


               (1)  Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Gia tô theo sách dã lục thì tháng 3 năm
               Nguyên Hoàng đời vua Lê Trang Tôn (1533) có một dương nhân là Inikhu đã đi đường biển để vào
               giảng đạo Gia tô ở Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chấn và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao
               Thủy...”. Năm 1533 được coi là mốc thời gian đánh dấu việc truyền bá Công giáo vào Việt Nam.
               (2)  Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 3, sđd, tr.588-589.
   673   674   675   676   677   678   679   680   681   682   683