Page 712 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 712
712 Ñòa chí Quaûng Yeân
Truyền thuyết Vua Bà: Tương truyền, trên bến đò cổ từ trại An Hưng (nay là
phường Yên Giang) sang Thủy Nguyên (Hải Phòng) có một cây cổ thụ gọi là cây quếch.
Dưới gốc cây là một quán nước, chủ quán là một thôn nữ xinh đẹp, đoan trang, đôn hậu
nên mọi người thường gọi là bà hàng nước. Là người địa phương lại thêm bán nước cho
khách qua sông Bạch Đằng lâu ngày, bà nắm rất chắc lịch con nước triều và địa thế lòng
sông: giờ con nước triều lên, giờ con nước triều xuống, ngày nào nước đứng, chỗ nào có
ghềnh đá, khúc sông nào sâu. Năm 1288, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đi thị
sát địa hình sông Bạch Đằng, tìm nơi cắm cọc gỗ, bày binh bố trận để tiêu diệt đoàn
thuyền chiến xâm lược của Ô Mã Nhi. Ngài dừng lại ở bến đò Rừng, hỏi bà hàng nước.
Bà liền cung cấp tỉ mỉ cho Trần Hưng Đạo lịch con nước triều “tháng tám trâu bò ra,
tháng ba trâu bò về” và địa thế lòng sông. Bà còn mách bảo trại An Hưng là nơi nhiều
cỏ cây và dễ cháy, hãy làm bè mảng mà thiêu đốt thuyền giặc. Cảm tạ bà hàng nước,
Trần Hưng Đạo đã tìm ra nơi cắm ba bãi cọc ở Đầm Nhử (bãi cọc Yên Giang), Đồng Vạn
Muối và Đồng Má Ngựa. Chỉ cần cắm ba bãi cọc kết hợp với hai dải đá ngầm Ghềnh Cốc
và Ghềnh Chanh đã tạo thành một phòng tuyến chặn sông Bạch Đằng rộng hơn 5 km .
(1)
Ngài còn cho quân sĩ làm bè mảng bằng tre, trên chất đầy cỏ xăng lao từ hai bên bờ
(2)
ra, tạo thành một trận hỏa công tiêu diệt giặc. Sau khi thắng trận, ngài quay lại bến
đò Rừng tìm bà hàng nước để tạ ơn, nhưng không thấy bà đâu nữa, chỉ thấy một đống
mối rất to đùn lên như ngôi mộ nơi bà hàng nước ngồi. Cảm kích trước tấm lòng của bà,
Hưng Đạo Đại vương xin Vua Trần phong bà là Vua Bà, cho lập miếu thờ phụng.
Truyền thuyết Tứ vị Thượng đẳng thần : Từ Kiếp Bạc đi ra biển theo hướng
(3)
Bàn Cờ, Đá Bạc (còn gọi là Đá Bạch), địa thế núi non hiểm trở, sông nước nhiều nhánh,
nhiều dòng chi chít: dòng Lục Đầu, bến Phả Lại, dòng Bạch Đằng, dòng Đá Bạc, dòng
Kìm sóng nhánh với dòng Đùng, riêng dòng Đùng (người dân địa phương gọi là sông
Đùng Đại vương) càng đặc biệt hơn. Sông Đùng rẽ thành đôi nhánh tạo ra một đượng
đất rất lạ và tự nhiên, người bên ngoài không nhìn thấy đượng đất này được, vì nằm
ở chỗ thắt nút điểm nối giữa hai nhánh dòng Kìm và Sông Đùng. Lại có một loại cổ
thụ gọi là cây giêng (tên cổ là Cu Linh). Người từ ngoài Bàn Cờ muốn vào được vùng
đất này rất khó khăn. Ai cũng bảo đây là một ốc đảo. Hưng Đạo Đại vương đăm chiêu
nung nấu tại quân doanh, đêm đã khuya, ngài vẫn chong đèn tìm kế sách đánh giặc.
Làm sao để có được hai điểm phát hỏa ở đượng đất Cu Linh - Cây Giêng và phía đối
diện Đá Bạc để cùng lừa thuyền của quân Nguyên - Mông vào chỗ chết khi nước thủy
triều rút xuống. Muốn thế phải vào tận trong ốc đảo để thị sát. Thức trắng đêm, Hưng
Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn mệt quá thiếp đi trên bàn làm việc. Trong mơ, ngài
thấy hiện lên bốn vị thần linh, tướng mạo khác thường, mắt sáng như sao, mỗi vị mặc
áo bào màu khác nhau: đỏ, xanh, vàng và tía, tự xưng là Tứ vị Đại tướng quân, nói
rằng: “Ngài hiện đang lo lắng cho thủy quân bày trận dẹp người Nguyên giữ yên bờ cõi.
Muốn vào ốc đảo, nắm điểm phát hỏa ở đượng đất Cu Linh - Cây Giêng thì sáng sớm
mai, ngài tới bến Bàn Cờ, chúng ta sẽ cho người đem thuyền đón và dẫn vào tận nơi”.
(1) Ban Quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh: Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng năm 1288,
sđd, tr.114-115.
(2) Nhân dân địa phương gọi cỏ xăng là cỏ gianh, một loại cỏ dễ cháy.
(3) Tứ vị thượng đẳng thần: Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng tướng quân và Bạch
Thạch tướng quân.