Page 723 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 723

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    723



               Bắc Bộ đã đem theo nghệ thuật chèo, thành lập những gánh hát và trao truyền cho thế
               hệ con cháu. Chèo gồm hát chèo và diễn chèo.

                  Lời hát chèo chủ yếu được hình thành từ các làn điệu dân ca, ca dao, thơ giàu chất
               văn học, đằm thắm, trữ tình. Mỗi làn điệu có giai điệu và chức năng biểu cảm riêng,
               nhất là khi diễn đạt trạng thái nhân vật cụ thể của vở diễn chèo. Tại Quảng Yên có
               nhiều làn điệu tiêu biểu như: Đào liễu, Đò đưa, Ru kệ...

                  Diễn chèo là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, có kịch bản được lấy từ truyện cổ
               tích, truyện Nôm hoặc điển tích Trung Quốc, được nâng cao bằng nghệ thuật sân khấu.
               Trong các vở chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, người tốt luôn được đền đáp xứng đáng,
               qua đó thể hiện giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo sâu sắc .
                                                                                 (1)
                  Tại Quảng Yên, dưới thời Nguyễn, nhiều làng có gánh chèo như: gánh làng Trung
               Bản (nay thuộc xã Liên Hòa), gánh làng Cốc (nay thuộc phường Phong Cốc), gánh làng
               Cẩm La (nay thuộc xã Cẩm La), gánh làng Vị Khê (nay thuộc xã Liên Vị) và gánh làng
               Hải Yến (nay thuộc phường Yên Hải) ... Các gánh chèo thường biểu diễn tại hội đình,
                                                       (2)
               hội làng, sân từ đường các dòng họ nhân ngày tế tổ, nhiều nhà có điều kiện còn mời gánh
               hát trong ngày khao vọng, cưới xin.

                  Thông thường mỗi gánh chèo (còn gọi là phường chèo) có hơn 10 người, trong đó có
               một người gọi là trùm chèo vừa giỏi nghề vừa giỏi giao tiếp, quản lý tài chính, nhân
               sự. Các nghệ nhân thường là những người đam mê chèo, tự nguyện đi theo gánh hát
               và được truyền nghề, cũng có nhiều nghệ nhân được cha mẹ cho đi theo từ nhỏ và được
               phân vai diễn. Hát chèo thường rộ lên vào dịp đầu xuân, hội hè, đến khi hết dịp, các
               gánh hát tạm nghỉ diễn, các nghệ nhân quay về với nghề nông, nghề biển hoặc các
               nghề thủ công truyền thống. Nội dung các tiết mục chủ yếu dựa vào các tích như: Lưu
               Bình - Dương Lễ, Trương Viên, Quan Âm Thị Kính, Tống Trân - Cúc Hoa... Khác với
               vùng Đông Triều thường diễn trích đoạn, các gánh hát tại Quảng Yên chủ yếu diễn cả
               tích. Trang phục trong các vở chèo thường gồm áo mớ ba mớ bảy, váy, hài, ủng, guốc và
               phụ kiện như khăn, ô, nón... Người xưa có câu “phi trống bất thành chèo”, mỗi gánh hát
               thường có dàn nhạc với nhạc cụ gồm: trống cái, trống đế, nhị, đàn bầu, đàn tam, thanh
               la, phách, sáo, kèn.

                  Hiện nay, tại Quảng Yên, gánh chèo không còn nữa, để gìn giữ và phát huy giá trị
               chèo truyền thống, nhiều xã, phường đã thành lập các câu lạc bộ hát chèo như: Câu lạc
               bộ Chèo Liên Hòa, Câu lạc bộ Chèo Cẩm La, Câu lạc bộ Chèo Phong Cốc... Giữa nhịp
               sống hiện đại, những làn điệu chèo vẫn âm vang, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân
               dân và góp phần “truyền lửa” nghệ thuật cho thế hệ mai sau.
                  Tuồng

                  Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc, được hình thành trên
               cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian.
                  Trước đây tại vùng đảo Hà Nam có cả tuồng pho và tuồng đồ. Tuồng pho là loại hình
               mang tính chất bác học, từ biên soạn đến việc tập luyện và trình diễn được làm công phu,


               (1)  Xem Bùi Xuân Đính: Bách khoa thư làng Việt cổ truyền, sđd, tr.835.
               (2)  Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 2, sđd, tr.309.
   718   719   720   721   722   723   724   725   726   727   728