Page 722 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 722

722    Ñòa chí Quaûng Yeân



               trang phục nữ giới gồm áo cánh một màu, bên ngoài khoác áo tím hoa cà hoặc hồng cánh
               sen. Người hát coi việc được - thua trong hát đúm là lẽ thường tình, cái người ta quan
               tâm là được thể hiện tài năng, được bầu bạn tâm sự, được gắn kết tình cảm.

                  Năm tháng qua đi, dẫu có lúc thăng lúc trầm, trên vùng đất Quảng Yên vẫn âm vang
               những câu hát đúm. Để làm được điều ấy là nhờ những thế hệ nghệ nhân tâm huyết,
               miệt mài “giữ hồn cho nghệ thuật hát đúm”. Không chỉ sưu tầm, biểu diễn, họ còn nặng
               lòng trăn trở làm sao bảo tồn và phát triển nghệ thuật, đưa hát đúm đến gần hơn với
               giới trẻ. Với những đóng góp thiết thực cho văn nghệ dân gian địa phương, các nghệ
               nhân đã được phong tặng các danh hiệu cao quý:

                  - Nghệ nhân Ưu tú (do Chủ tịch nước phong tặng): nghệ nhân Phạm Thị Quyết, nghệ
               nhân Ngô Đăng Nhuận, nghệ nhân Phạm Thị Thành ở phường Phong Hải; nghệ nhân
               Phạm Thị Hợp ở xã Cẩm La.
                  - Nghệ nhân Dân gian (do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trao tặng): nghệ nhân
               Nguyễn Đình Luyện, nghệ nhân Vũ Thị Bấc ở phường Phong Cốc; nghệ nhân Bùi Huy
               Lân ở phường Phong Hải.

                  Hát đúm đã góp thêm cho đời sống dân tộc một loại hình trữ tình dân gian độc đáo .
                                                                                                         (1)
               Việc giữ gìn, bảo tồn những câu hát đúm chính là góp phần làm phong phú đời sống tinh
               thần của nhân dân, đồng thời gìn giữ bản sắc văn hóa của quê hương vùng đảo Hà Nam.

                  Hò biển

                  Hò là một thể loại diễn xướng trong đời sống người Việt Nam từ thời xa xưa, khởi
               nguồn từ tập quán sinh hoạt vùng chiêm trũng nhằm diễn tả tâm trạng của người lao
               động . Tại Quảng Yên, giữa vùng biển mênh mông, những ngư dân quanh năm lênh
                    (2)
               đênh trên thuyền đã cất lên những giai điệu hò biển làm phương tiện giao tiếp, bày tỏ
               tâm tư, tình cảm của mình.

                  Giai điệu của lối hát hò biển tại Quảng Yên gần với giai điệu của giọng hò miền
               Trung nhưng mềm mại, chậm rãi, mênh mang, trữ tình hơn. Sau tiếng “ơ” ngân dài là
               lời hò với tiết tấu chậm, âm vực thấp. Nội dung của những câu hò gần gũi, thân thuộc,
               diễn tả nhịp sống lao động, ngợi ca tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm lứa đôi.
                  Với những người dân vùng biển, con thuyền, sóng nước đã giúp ngư dân sáng tác giai
               điệu, gửi tâm tư vào những câu hò. Từ những giá trị tích lũy được, họ đã tạo nên nét văn
               hóa đặc sắc riêng của miền sông nước để hôm nay trong hành trình vươn khơi bám biển,
               những giọng hò Quảng Yên vẫn âm vang nặng nghĩa, nặng tình.

                  Chèo

                  Chèo chủ yếu được lan truyền vào và phát triển tại Quảng Yên từ thời Lê, sau khi có các
               đợt di dân đến khai hoang lập ấp, dựng lên xóm làng. Những lớp người di cư từ đồng bằng


               (1)  Dương Nguyệt Vân - Lê Thị Ninh: “Hát đúm trong đời sống văn hóa của người dân đảo Hà Nam
               (Quảng Ninh)”, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 488, 2022, tr.49.
               (2)  Trần Văn Khê: Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
               2004, tr.81.
   717   718   719   720   721   722   723   724   725   726   727