Page 127 - Sách năm 2022 - Fulltext - hieu final
P. 127
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NUÔI DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU PHẪU THUẬT
TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN HOÀN MỸ SÀI GÒN
Nguyễn Thị Hòa, Phạm Trần Quỳnh Như, Trần Thị Minh Hạnh
Hoan My Sai Gon hospital
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chăm sóc dinh dưỡng trong ERAS góp phần nâng cao hiệu quả trong
phẫu thuật (PT) gồm có: hỗ trợ dinh dưỡng trước PT, nạp carbohydrate trước PT, nuôi ăn
tiêu hóa sớm sau PT. Nghiên cứu nhằm tìm khoảng trống giữa thực tế chăm sóc dinh dưỡng
tại BV HMSG so với khuyến cáo của ERAS.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân (BN) phẫu
thuật tiêu hóa. BN được phỏng vấn về cách nuôi dưỡng trước và sau phẫu thuật (PT). Khẩu
phần ăn được thu thập bằng phương pháp hỏi ghi 24h.
Kết quả: Trong 40 bệnh nhân phẫu thuật tiêu hóa có 65,9% BN PT cắt đại trực tràng,
hơn một nửa BN PT chương trình. Tỷ lệ BN có nguy cơ dinh dưỡng trước PT chương trình
là 19% (4/21 BN), trong đó chỉ có 1 BN được can thiệp dinh dưỡng trước PT. BN PT
chương trình có thời gian nhịn ăn kéo dài, trung vị 20,1(14,6-27,0) giờ. Tỷ lệ BN uống
nước trong (đường maltodextrin) trước PT rất thấp (4/16 BN), lượng carbohydrate uống
dưới 50% theo khuyến cáo của ESPEN. Hầu hết BN (95%) được chỉ định cho ăn sớm sau
PT. Tuy nhiên, năng lượng khẩu phần trong ba ngày đầu chỉ đạt 144 Kcal/ngày. Chế độ ăn
hầu như không có chất đạm trong 3 ngày đầu sau PT. Năng lượng và protein trong khẩu
phần ăn chỉ đạt khoảng 50% nhu cầu khuyến nghị vào HPN7. Dinh dưỡng chủ yếu được
cung cấp từ đường tĩnh mạch.
Kết luận: Chăm sóc dinh dưỡng theo ERAS bước đầu được áp dụng tại BV HMSG.
Để tăng tỷ lệ tuân thủ chăm sóc dinh dưỡng theo ERAS, khoa tiêu hóa cần phối hợp với
khoa dinh dưỡng xây dựng hướng dẫn cụ thể về nuôi dưỡng trước và sau PT.
Từ khóa: phục hồi sớm sau phẫu thuật, dinh dưỡng chu phẫu, nguy cơ dinh dưỡng
127