Page 265 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 265
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 249
2. Đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa
Trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc, dưới chế độ cai trị của các
triều đại phong kiến phương Bắc, nền kinh tế ở An Nam có
nhiều chuyển biến. Khoảng đầu Công nguyên, kỹ thuật cày
bừa sử dụng sức kéo trâu bò bắt đầu được áp dụng ở Giao Chỉ.
Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là lúa gạo. Ngoài lúa, việc
trồng cây ăn quả như chuối, vải, nhãn, quýt, mơ... đã khá phát
triển. Từ khoảng thời Tây Hán đến Nam - Bắc triều, nông
nghiệp ở Giao Châu đã có sự chuyển biến rõ rệt nhờ sự phổ
biến của các công cụ sản xuất bằng sắt, cùng với đó là sự phổ
biến kỹ thuật cày bừa bằng trâu bò. Ngoài trồng ngũ cốc,
người dân còn phát triển nghề trồng dâu, đay, gai... Đến thời
Đường, chính quyền đô hộ đẩy mạnh phát triển kinh tế nông
nghiệp để tăng thu tô thuế. Bởi vậy, thế kỷ VII chính là thời
kỳ kinh tế An Nam được hồi phục và phát triển, với nghề
trồng lúa hai vụ; nghề trồng dâu nuôi tằm; chăn nuôi các loại
gia súc và gia cầm như trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, vịt... Tuy nhiên,
cùng với đó, chính quyền ngoại bang tăng cường chính sách vơ
vét và bóc lột thông qua chế độ tô thuế nặng nề.
Ngoài nông nghiệp, nghề săn bắn và đánh bắt cá còn giữ vai
trò quan trọng ở nhiều nơi, đặc biệt là những vùng ven biển. Các
hộ ở miền biển còn có nghề làm muối. Muối cũng như sắt đều bị
đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền đô hộ, do
Diêm quan trực tiếp trông coi. Miền ven biển Việt Nam còn có
nhiều trai sò có vỏ cứng, màu sắc rất đẹp. Thư tịch Trung Quốc
khen ngợi đồ khảm bằng xà cừ của An Nam là báu vật .
1
_______________
1. Xem Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng: Lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963, t.1, tr.29, 67.

