Page 266 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 266

250                                   Cẩm Phả - Đất và Người


                 Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, vùng  đất Ninh Hải - Lục
             Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) luôn giữ một vị trí  địa -
             chính trị - kinh tế đặc biệt quan trọng ở Giao Chỉ - Giao Châu.
             Đây là vùng cửa ngõ  Đông Bắc, với những tuyến giao thông
             thủy bộ huyết mạch nối liền miền nam Trung Quốc với Giao

             Châu. Ninh Hải - Lục Châu là vùng ven biển, có nhiều nguồn
             lợi kinh tế mà hiếm nơi nào có được, tiêu biểu như muối, ngọc
             trai, đồi mồi, các loại thủy hải sản... nên luôn là địa bàn được
             các chính quyền đô hộ phương Bắc quan tâm đặc biệt.
                 Về nông nghiệp, khu vực Ninh Hải - Lục Châu có  địa

             hình đồi núi, vùng cửa sông có đồng bằng nhỏ hẹp, thuận lợi
             cho canh tác lúa nước và lúa nương. Truyền thuyết về bà Lê
             Chân từ vùng  Đông Triều (Quảng Ninh) sang vùng sông
             Cửa Cấm (Hải Phòng) khai khẩn đất hoang, lập nên trang

             An Biên, phát triển nông nghiệp, đã phần nào cho thấy sự
             mở rộng của một vùng kinh tế nông nghiệp khắp khu vực
             duyên hải Bắc Bộ nước ta ngay từ thời  đầu Công nguyên.
             Tuy nhiên, do địa hình sát biển nên thế mạnh của vùng đất
             này chủ yếu là lâm thổ sản từ rừng và thủy hải sản từ biển,

             với các nghề làm muối, đánh bắt thủy hải sản, mò ngọc trai
             và thương mại biển. Vùng Ninh Hải - Lục Châu có nguồn
             trai ngọc  đặc biệt tốt.  Để vơ vét nguồn lợi ngọc trai, các
             chính quyền đô hộ đã bắt cư dân ở đây phải lặn biển mò trai

             ngọc  để cống nộp. Theo  Thái Bình hoàn vũ ký, người dân
             Lục Châu thuộc An Nam chủ yếu sống bằng nghề làm muối
             và mò ngọc châu, mỗi năm phải nộp một khoản thuế cố định
             là 100 hộc gạo mỗi hộ .
                                      1
             _______________

                 1. Thái Bình hoàn vũ ký, q.181, 11a (Dẫn theo Hà Văn Tấn, Trần
             Quốc Vượng: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, t.1, tr.133).
   261   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271