Page 45 - BA CHUA MO
P. 45

BÀ CHÚA MÕ - HUYỀN TÍCH VÀ ƯỚC VỌNG  |  43

                 2. Kệ 喝: nếu dùng tấm đá trên nhỏ, dưới to, đầu hình

           khum tròn, thì gọi là Kệ.

                 Bia Trung Quốc có từ đời Tần Thủy Hoàng (221-210
           TCN), đến đời Đông Hán (25-220 SCN) về sau, việc dựng bi

           kệ rất phát triển: có bia ca tụng sự nghiệp, có bia ghi chép
           công việc, có bia mộ, v.v… Hình thức và quy chế của bia có

           cách thức nhất định…” (Từ Hải (1999), tr.1990).

                 Ở Việt Nam, bia chữ Hán sớm nhất, hiện được biết là
           大 隋 九 真 郡 寶 安 道 場 之 碑 文 - Đại Tùy Cửu Chân

           quận bảo an đạo tràng chi bi văn (Nghĩa là: Văn bia về đàn
           cúng Phật cầu mạnh khỏe ở quận Cửu Chân triều Đại Tùy)
           dựng  vào  mùng  8  tháng  4  năm  Mậu  Dần,  niên  hiệu  Đại

           Nghiệp  thứ  14,  tức  7-5-618  (Gần  đây,  có  người  công  bố
           Tấm bia đời Tùy - niên hiệu Nhân Thọ thứ 1 (601), ở chùa

           Giàn, Huệ Trạch tự, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh
           Bắc Ninh. Nhưng qua thẩm định, tôi khẳng định đó là Bia
           ngụy tạo, thời gian gần đây).


                 Về hình thức: Phần lớn bia chữ Hán ở Việt Nam hình
           vuông có 2 mặt, có một số ít bia 4 mặt (thường là bia Lê
           Trung hưng - thế kỷ XVII-XVIII). Ngoài ra, còn có bia một

           mặt (như bia Ma nhai - khắc vào vách đá núi, hoặc mặt sau
           gắn vào tường…).

                 Về cấu tạo: Một tấm bia gồm có 3 phần:
   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50