Page 94 - 27.9 Sách trai Cầu Vồng Yên thế
P. 94

chương của Đảng, Nhà nước Việt Nam và của nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân

                  Lào. Ông Đỗ Như Thủy được Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng lao
                  động thời kỳ đổi mới theo Quyết định số 955/2005/QĐ-CTN ngày 26/8/2005

                  của Chủ tịch nước từ năm 1995-2004 vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong

                  lao động sáng tạo.

                        11. Liệt sỹ Trần Đức Thịnh

                        Ông  Trần  Đức  Thịnh,  sinh  năm  1897  quê  tại  xóm  Quân,  làng  Sặt,  xã

                  Cương lập, huyện Yên Thế , nay là thôn Sặt, xã Liên Sơn, huyện Tân Yên. Ông
                  là con trai thứ của cụ Trần Đức Thăng, tức Đề Lâm trong Khởi nghĩa Nông dân

                  Yên Thế (1884- 1913).

                        Lúc trẻ, ông Thịnh có thời gian Lý trưởng ở Sặt nhưng trong lòng vẫn nuôi

                  chí đánh giặc Pháp. Thời gian đó, ông thường chế súng và giấu trên cây thị trước

                  nhà. Do có kẻ mật báo cho Thực dân Pháp, tháng 4-1924, ông Thịnh bị thực dân
                  Pháp bắt giam ở Hỏa Lò, Hà Nội vì tội cất giấu vũ khí. Năm 1929, ông cùng một

                  số người vượt ngục trốn lên vùng núi Bắc Sơn rồi theo cách mạng. Với bí danh
                  là Trần Đức Đào hoạt động ở Bắc Sơn, Võ Nhai, Tràng Xá, Đại Từ… thuộc tỉnh

                  Lạng Sơn, Thái Nguyên… Ở Bắc Sơn, ông hoạt động rất tích cực. Tháng 10-
                  1939, ông bị Pháp bắt ở hang Mỏ Rẹ, xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn và bị đày lên

                  Nhà tù Sơn La.

                        Ở Nhà tù Sơn La ngày ấy có tổ chức cách mạng, trước yêu cầu của cách

                  mạng Chi bộ Đảng do đồng chí Tô Hiệu làm bí thư đã tổ chức cho Trần Đức

                  Thịnh và Nguyễn Văn Tường vượt ngục. Ra khởi nhà tù, hai ông được Đàm Văn
                  Lý là giao liên của cơ sở cách mạng tại Sơn La đón đi nhưng đến Chiềng Sôm,

                  ba người bị Pháp vây bắt, bắn chết (năm 1941) rồi chặt đầu đem về bêu trong

                  nhà  tù. Đồng  chí  Tô  Hiệu  tìm  cách  lấy  lại đầu  của ông, bí mật  chôn  ở  chân
                  tường nhà tù (có ý kiến cho rằng sau đó đồng chí Tô Hiệu trồng cây đào ở đó

                  làm dấu bởi Trần Đức Thịnh còn có một tên nữa là Trần Đức Đào, Lý Đào).

                        Hồ sơ của ông Trần Đức Thịnh lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Sơn La xác nhận

                  tù nhân chính trị bị giam cầm ở Nhà tù Sơn La giai đoạn 1930-1945 kèm theo

                  danh sách tù nhân chính trị bị thực dân Pháp giam cầm tại đây. Văn bản ghi rõ:
                  Ông Trần Đức Đào (tức Thịnh, Lý) sinh năm 1897, quê quán: Cương Lập, Yên

                  Thế, Bắc Giang. Thời gian vào tù: 1939 - hy sinh năm 1941 tại Nhà tù Sơn La.
                  Trong tập Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La, phần danh sách các đồng chí trước đây





                                                              94
   89   90   91   92   93   94   95   96   97   98   99