Page 161 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 161

TIỀN TỆ VÀ THƯƠNG MẠI                                        159


            đặc biệt đúng vào cuối thế kỷ 17 khi từ năm 1684, trọng lượng
            của đồng tiền Khang Hi giảm dần. Trong khi vào năm 1688 tại

            Trung Hoa, một lạng bạc trị giá bằng 1.400 tới 1.500 đồng tiền
            đồng thì vào năm 1697, một lạng bạc trị giá bằng 3.030 đồng
            tiền kim loại được đúc với một trọng lượng nhẹ hơn . Số 3.030
                                                                  1
            tiền kim loại này trị giá 5,05 quan tiền đồng ở Đàng Trong. Tại
            đây, vàng giá khoảng 13 quan một lạng hoặc thấp hơn nữa .
                                                                           2
            Do đó, khi giá theo tỷ lệ của vàng với bạc ở Trung Hoa là 1/10,
            việc trao đổi tiền kim loại Trung Hoa lấy vàng của Đàng Trong

            có thể đem lại 288% lời . Tuy nhiên, khi giá bạc sụt và giá đồng
                                    3
            tăng tại Trung Hoa vào thế kỷ 18 thì việc chuyên chở tiền kim
            loại sẽ không có lời.
               Nếu chúng ta tìm hiểu nền thương mại ở Đàng Trong trong
            các thế kỷ 17 và 18, chúng ta sẽ thấy tiền kim loại được nhập
            càng ngày càng ít đi và đồng thì ngày càng đắt. Trong khi giá

            đồng là 20 quan một picul năm 1695  thì vào năm 1750, giá này
                                                 4
            đã tăng lên gấp đôi  và vào thập niên 1770, đã lên tới 45 quan
                                5
            một picul .
                      6
               Năm 1750, tỷ giá chính thức giữa bạc và đồng ở Trung Hoa là

            1:57 , trong khi tại Đàng Trong là 1:50 hạ xuống còn 1:44 trong
                 7
            thập niên 1770 . Có chênh lệch nghĩa là vẫn còn có lời đối với
                            8
            người Hoa khi buôn bán đồng ở Đàng Trong. Dầu vậy, phần lớn


            1   Bành Tín Huy, Trung Quốc hóa tệ sử (Lịch sử việc đúc tiền của Trung Quốc), Nhà xuất bản Nhân Dân,
               Thượng Hải, 1958, trg.567.
            2   Poivre nói là trước năm 1750, vàng trị giá 130 quan/10 lạng, và 150 quan vào một năm đắt. Xem
               “Voyages de Pierre Poivre en Cochinchine”. Revue de L’Extrêm-Orient, quyển 3, 1885, trg.430.
            3   Trước 1710, tỷ lệ chính thức giữa vàng và bạc là 1/10, nhưng trong thực tế, người Anh mua vàng ở giá
               9,85 lạng bạc 94, năm 1700. Xem Morse, H.B., The East India Company Trading to China, quyển, trg.
               69.
            4   Poivre, “Mémoires”, trg. 336.
            5   Lamb, trg. 52. Bản văn viết là “teal” có nghĩa là quan. Xem Ibid, trg. 53: “Teal của họ được tính bằng
               tiền kim loại... 600 là một ngàn hay teal”.
            6   Phủ biên, quyển 4, trg. 21a.
            7   Bành Tín Huy, trg. 571.
            8   Theo Poivre, 1 lạng bạc tại Đàng Trong vào năm 1750 trị giá 2 quan. Poivre, Journal, trg.406.

                                                           www.hocthuatphuongdong.vn
   156   157   158   159   160   161   162   163   164   165   166