Page 255 - thphanvantriq1_1105581_1ho-chi-minh-bien-nien-tie
P. 255
255
PHAN CHÂU TRINH (1872 - 1926), người Quảng Nam, đỗ Phó bảng năm
1901. Năm 1903, làm Thừa biện Bộ Lễ. Năm 1905, cáo quan về quê hoạt động
chính trị. Năm 1906, sau chuyến đi Nhật về, Phan Châu Trinh ra sức tuyên
truyền chủ trương cải cách và trở thành một trong những người cầm đầu xu
hướng cải lương ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 1908, khi phong trào chống
thuế của nông dân Trung Kỳ bị đàn áp, ông bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn
Đảo.
Năm 1911, nhờ có Hội Liên minh nhân quyền Pháp can thiệp, ông được
trả tự do và sang cư trú tại Pháp.
Năm 1925, thực dân Pháp bố trí đưa ông về nước, âm mưu lợi dụng chủ
trương cải lương của ông để ngăn chặn phong trào cách mạng đang trên đà phát
triển. Ông lâm bệnh và mất vào tháng 3-1926.
PHAN VĂN TRƯỜNG (1876 - 1933), quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; sang Pháp
năm 1908, vừa làm việc vừa tiếp tục học thêm. Năm 1914, bị bắt đi lính. Vì
nghi hoạt động chống Pháp nên bị kết án 11 tháng tù, sau được trắng án, nhưng
đến năm 1919 mới được giải ngũ. Phan Văn Trường hoàn thành luận án tiến sĩ
luật và làm luật sư ở Toà thượng thẩm Pari. Năm 1933 về nước, thay Nguyễn
An Ninh làm giám đốc chính trị báo La Cloche félée xuất bản ở Sài Gòn, đã
cho đăng toàn văn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen, đăng
lại nhiều bài của các nhà hoạt động cộng sản Pháp đã xuất bản ở Pháp.
Phan Văn Trường có cảm tình với Nguyễn Ái Quốc từ khi mới đến Pháp
và cùng hoạt động yêu nước chống thực dân ở Pari, ủng hộ Cách mạng Tháng
Mười Nga, tán thành đường lối của Quốc tế Cộng sản và kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân trên lập trường tiến bộ.
POANHCARÊ, Raymông (1860 - 1934), Tổng thống nước Pháp từ năm 1913
đến năm 1920, đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất. Từ năm 1922 đến năm 1924 và từ năm 1926 đến năm 1929,
Poănhgcarê làm Thủ tướng Chính phủ Pháp, thi hành những chính sách tối phản
động theo chủ nghĩa sô vanh và chống Liên Xô.
T
TÔN TRUNG SƠN, tên Văn, tự Dật Tiên (1866 - 1925), người huyện Hương
Sơn, tỉnh Quảng Đông; lúc ở Nhật lấy biệt hiệu là Trung Sơn Tiều (người hái
củi ở Trung Sơn) vì thế được gọi là Trung Sơn tiên sinh. Ông sinh ngày 12-11-
1866 trong một gia đình nông dân, học trường y ở Hồng Kông và Quảng Châu.
Nuôi chí lớn lật đổ nhà Thanh, ông sớm lập ra Hưng Trung hội. Năm 1905 sáng
lập học thuyết Tam dân. Sau 1905, tổ chức các nhóm cách mạng bí mật của
Trung Quốc ở trong và ngoài nước thành Trung Quốc cách mạng đồng minh
hội. Nhiều lần khởi nghĩa nhưng đều thất bại. Năm 1911 (Tân Hợi) khởi nghĩa
thắng lợi ở Vũ Xương, thành lập Trung Hoa dân quốc, được bầu làm Đại Tổng
thống lâm thời, sau đó ít lâu thì từ chức, cải tổ Đồng minh hội thành Quốc dân
đảng. Năm 1912, cải tổ Quốc dân đảng thành Trung Hoa cách mạng đảng. Năm