Page 28 - Catalouge AChau
P. 28

–                          B    v         M  Cử  Long



                     trúc đậm độ lỏng lẻo, kích thước lỗ thông qua eo bóng 35, được đóng với dù 38, phát
                     hiện trôi dù 12 giờ sau can thiệp, dù trôi vào thất phải, vướng vào van 3 lá, bệnh nhân
                     được mổ cấp cứu để lấy dụng cụ và vá lỗ thông, trong khi phẫu thuật đo lại kích thước
                     lỗ thông 30, rìa tĩnh mạch chủ dưới cấu trúc lỏng lẻo và bị rách bán phần. Theo nhiều
                     nghiên  cứu  trên  thế  giới  và  trong  nước  thì  nguyên  nhân  chính  dẫn  đến  thất  bại  của
                     phương pháp bít lỗ thông phần nhiều liên quan đến rìa tĩnh mạch chủ dưới, qua đó cũng
                     nói lên vai trò vô cùng quan trọng của siêu âm tim đặc biệt siêu âm tim qua thực quản
                     trong việc đánh giá chính xác lỗ thông và cấu trúc rìa xung quanh lỗ thông, góp phần
                     quyết định sự thành công hay không thành công của phương pháp. Tỷ lệ trôi dù của
                     chúng tôi cũng tương đương với nghiên cứu Đỗ Nguyên Tín là 2,8% trên tổng số 145
                     bệnh nhân [4], Nguyễn Lân Hiếu là 1% trên tổng số 249 bệnh nhân [1], Masood Sadid
                     là 2% trên tổng số 205 bệnh nhân [9].
                     - Trường hợp thứ 2 không thành công là bệnh nhân nữ 33 tuổi, bóng tim lớn, tăng áp
                     phổi nặng, kích thước lỗ thông qua eo bóng 30, được bít với dù 32, không thả được theo
                     phương pháp truyền thống, phải tiến hành thả theo phương pháp cải tiến, thả cánh trái
                     dụng cụ trong tĩnh mạch phổi trên trái, sau khi thả hoàn tất cánh phải, trong khi theo dõi
                     chưa tháo cáp dù, phát hiện huyết áp tụt, siêu âm phát hiện tràn máu màng ngoài tim
                     gây chẹn tim, quyết định thu hồi dù, chọc dẫn lưu, bệnh ổn sau đó chuyển mổ theo
                     chương trình. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu tai biến tràn máu màng ngoài tim gây chèn
                     ép tim là tai biến nặng là tai biến nặng đe dọa tính mạng bệnh nhân, nguyên nhân là do
                     kỹ thuật xử lý dây dẫn không tốt đầu dây dẫn chọc thủng thành mạch thường là tĩnh
                     mạch phổi hoặc vách tim chủ yếu là vách nhĩ gây tràn máu màng ngoài tim dẫn đến ép
                     tim. Tỷ lệ biến chứng tràn máu màng ngoài tim gặp ở nghiên cứu Đỗ Nguyên Tín là 1
                     trường hợp trên tổng số 145 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 0,7% [4], nghiên cứu của Mostafa
                     Behjati là 1 trường hợp trên tổng số 58 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 1,7% [11].
                     Về sự thay đổi tỷ lệ RVEDD/LVEDD
                     Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thấy  tỷ  lệ  đường  kính  thất  phải  cuối  tâm
                     trương/đường kính thất trái cuối tâm trương thay đổi khá rõ ràng từ ngay sau can thiệp,
                     được thể hiện qua trị số trung bình từ 0,8±0,2 trước can thiệp xuống còn 0,7±0,2 trước
                     ra viện và xuống tiếp gần như bình thường 0,5±0,1 sau theo dõi 3 tháng, đây là kết quả
                     của việc tái cấu trúc buồng tim trong đó buồng thất phải thu nhỏ lại và tăng kích thước
                     buồng thất trái, phù hợp với sinh bệnh học thông liên nhĩ sau khi bít lỗ thông. Và qua đó
                     cũng gián tiếp phản ánh hiệu quả về mặt điều trị của phương pháp. Kết quả nghiên cứu
                     của  chúng  tôi  khá  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  Kevser  Gülcihan  Balci  8],  Hossein
                     Dehghani [7], Mehmet G. Kaya [10].
                     Về sự thay đổi áp lực động mạch phổi tâm thu
                     Áp lực động mạch phổi tâm thu đo qua siêu âm tim giảm dần từ sau can thiệp, thể hiện
                     qua trị số trung bình từ 44,4 ± 9,6mmHg trước can thiệp xuống 37,4 ± 6,8mmHg trước
                     ra viện và xuống tiếp gần như về mức bình thường 30,8 ± 4,1mmHg sau theo dõi 3
                     tháng, có ý nghĩa thống kê, kết quả chúng tôi khá phù hợp với nghiên cứu trong nước và
                     trên thế giới như của Đỗ Nguyên Tín [4], Nguyễn Lân Hiếu [1], Mehmet G. Kaya [10],
                     Omid Salehian [12]. Như vậy có thể thấy sau bít lỗ thông liên nhĩ áp lực động mạch
                     phổi giảm rõ rệt, điều này trực tiếp phản ánh hiệu quả điều trị của phương pháp.
                     V. KẾT LUẬN VÀ  IẾN NGHỊ
                     Qua nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận bít lỗ thông liên nhĩ thể thứ phát bằng dụng cụ qua
                     da là phương pháp điều trị khả thi, đạt hiệu quả cao, thể hiện bằng tỷ lệ thành công cao và ít
                     biến chứng. Từ đó chúng tôi kiến nghị nên thực hiện sớm và triển khai rộng rãi phương
                     pháp này tại các trung tâm tim mạch ở Cần Thơ vì tính thiết thực của phương pháp.




                                                               5
   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32