Page 112 - Nghia vu hop dong
P. 112
khăn phức tạp, nhưng vấn đề sẽ phức tạp hơn nữa nếu xâm hại đến danh dự nhân
phẩm uy tín, và người gây thiệt hại là người thi hành công vụ.
Nhà nước với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành xã
hội thông qua quyền lực được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện, do đó
không tránh khỏi có xu hướng lạm dụng quyền lực. Sự lạm dụng có nhiều biểu
hiện cụ thể, song về hình thức thường là sự vi phạm pháp luật trong quá trình
thực thi quyền lực, về hậu quả thường là sự tổn hại các quyền, lợi ích hợp pháp
của đối tượng quản lý gây ra bởi các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên. Vì vậy,
nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại, BLDS đã quy định về BTTH
trong các trường hợp này.
Trước đây, theo quy định của BLDS năm 2005 quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra (Điều 619), do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Điều 620). Tuy nhiên, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức và do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính
đặc thù, được điều chỉnh bởi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009.
Chính vì vậy, đến BLDS 2015 đã sửa thành Bồi thường thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra (Điều 598).
Điều 598 BLDS năm 2015 quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Chính vì vậy, chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước có thể coi là một cơ chế pháp lý hiệu quả trong số các phương pháp có
thể hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của Nhà nước.
Chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam một mặt xuất
phát từ yêu cầu đảm bảo quyền cơ bản của con người trong thực tiễn, một mặt
phù hợp với công ước quốc tế về quyền yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại
do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính
trị của con người.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Tư pháp:
51