Page 99 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 99

98


                     Có tội phạm xảy ra (ngƣời bị xúi giục phải thực hiện tội phạm).


                     Tội phạm đƣợc thực hiện phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi xúi
              giục.

                     Dựa trên cơ sở quy định về khái niệm đồng phạm và ngƣời xúi giục có

              thể xây dựng cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục. Cấu thành tội phạm của
              hành vi xúi giục, về mặt khách quan gồm hai dấu hiệu hành vi kích động, dụ

              dỗ, thúc đẩy ngƣời khác và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi kích động, dụ
              dỗ, thúc đẩy ngƣời khác với việc thực hiện tội phạm thông qua ngƣời này. Về

              mặt chủ quan là lỗi cùng cố ý, trong đó có lỗi cố ý đối với hành vi kích dộng,
              dụ dỗ, thúc đẩy ngƣời khác thực hiện tội phạm.


                     4. Người giúp sức

                     Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, các bộ luật nhƣ Quốc Triều
              hình  luật,  Hoàng  Việt  luật  lệ,  đều  chƣa  đƣa  ra  khái  niệm  ngƣời  giúp  sức.

              Hoàng Việt hình luật có khái niệm về ngƣời giúp sức nhƣng nội hàm của khái
              niệm này rộng bao gồm cả những hành vi liên quan đến tội phạm nhƣ che giấu
              tội phạm, không tố giác tội phạm.


                     Sau Cách mạng tháng 8, những văn bản pháp luật hình sự của Nhà nƣớc
              ta có đề cập đến ngƣời giúp sức với thuật ngữ tòng phạm song cũng không có
              quy phạm định nghĩa về loại ngƣời đồng phạm này. Tuy nhiên, khái niệm giúp

              sức lại đƣợc nêu ra trong sách báo pháp lý: Người giúp sức là những người có
              hành vi giúp đỡ cho việc thực hiện tội phạm của những kẻ cộng phạm khác

              được dễ dàng.

                     Bộ luật hình sự năm 2015 tại khoản 3 Điều 17 quy định: Người giúp sức
              là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

                     Theo định nghĩa nêu trên thì ngƣời giúp sức chỉ là ngƣời tạo ra những

              điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho ngƣời thực hành thực hiện tội phạm chứ ngƣời
              giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi giúp sức thƣờng đƣợc

              thực hiện bằng hành động hoặc không hành động; có thể đƣợc thực hiện trƣớc
              hoặc trong khi tội phạm đang xảy ra. Trƣờng hợp không hành động xảy ra khi
              một ngƣời có nghĩa vụ theo luật định phải hành  động nhƣng đã không hành

              động và do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm. Ví dụ: A
              là bảo vệ cơ sở sản xuất hàng gia dụng, khi đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy

              bạn cùng phòng mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho chứa hàng, nhƣng A
              không bắt giữ B mà giả vờ nhƣ không biết. Kết quả là B đã lấy đƣợc số tài sản
   94   95   96   97   98   99   100   101   102   103   104