Page 95 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 95
94
bàn bạc với thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác và chỉ cho đồng phạm thực hiện kế
hoạch nhƣ thế nào, chạy trốn nhƣ thế nào trong trƣờng hợp bị phát giác, bố trí
thời gian, địa điểm phạm tội hợp lý để cho đồng phạm thực hiện tội phạm tốt
hơn và để đạt đƣợc mong muốn của mình.
- Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm của hành vi tổ chức là dấu hiệu
lỗi cùng cố ý. Hành vi phạm tội của ngƣời tổ chức luôn đƣợc thực hiện dƣới
hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Sự cố ý củà ngƣời tổ chức xét về mặt chủ quan có
những dấu hiệu sau:
+ Nhận thức đƣợc hành vi phạm tội do mình thực hiện là rất nguy hiểm,
thậm chí đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Các hành vi đó có thể là thành lập
băng, nhóm, tổ chức tội phạm; tập hợp, lôi kéo, dụ dỗ ngƣời khác tham già vào
tổ chức tội phạm do mình thành lập và điều khiển hoạt động phạm tội của đồng
bọn, cũng nhƣ việc tổ chức thực hiện một tội phạm cụ thể.
+ Nhận thức đƣợc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của
đồng bọn phạm tội do mình trực tiếp cầm đầu điều khiển chỉ huy.
+ Nhận thức đƣợc hậu quả phạm tội chung mà cả tổ chức đã thống nhất
thực hiện và mong muốn hậu quả đó mà xảy rà trong thực tế để đạt đƣợc mục
đích phạm tội củà tổ chức.
Trong vụ án đồng phạm vai trò của ngƣời tổ chức đƣợc xác định là nguy
hiểm hơn cả trong số những ngƣời đồng phạm. Theo quy định, Điều 3 Bộ luật
hình sự năm 2015 đã xác định nguyên tắc xử lý đối với loại ngƣời này
là:“Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy”. Dĩ nhiên, cũng có một vài
trƣờng hợp, ngƣời tổ chức đƣợc xem là không nguy hiểm bằng ngƣời thực
hành.
Do vậy, trong tổ chức tội phạm thì ngƣời tổ chức có vai trò tối quan
trọng. Một ngƣời đồng phạm chỉ cần có một trong các hành vi hoặc cầm đầu
hoặc chủ mƣu hoặc chỉ huy hoặc thành lập hay chỉ đạo thì ngƣời đó trở thành
ngƣời tổ chức trong vụ án có đồng phạm. Còn trong tổ chức tội phạm thì ngƣời
đó sẽ trở thành ngƣời tổ chức của tổ chức tội phạm đó.
3. Người xúi giục
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam cho đến trƣớc khi pháp
điển hóa lần thứ nhất Bộ luật hình sự năm 1985, khái niệm ngƣời xúi giục đã
đề cập đến với các tên gọi: ngƣời xúi giục, ngƣời gây việc.
Bộ luật hình sự năm 1999 tại khoản 2 Điều 20 cũng nhƣ Bộ luật hình sự
năm 2015 tại khoản 3 Điều 17 quy định:“Người xúi giục là người kích động,