Page 91 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 91

90


              lối, phƣơng hƣớng hoạt động chung cho tổ chức, đồng thời kích động thúc đẩy

              đồng bọn hoạt động phạm tội. Ngƣời chủ mƣu có thể trực tiếp đứng ra cầm
              đầu,  điều  khiển  hoạt  động  của  tổ  chức  (băng,  ổ,  nhóm)  nhƣng  cũng  có  thể

              không  tham  gia  tổ  chức.  Ví  dụ:  Bản  án  số  453/HSST/2005  xét  xử  ngày
              09/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với Nguyễn Tiến Q và
              đồng phạm về tội mua bán phụ nữ. Khi xét xử, Toà án nhận định về vai trò của

              từng bị cáo nhƣ sau: Nguyễn Tiến Q là ngƣời khởi xƣớng, rủ rê các bị cáo khác
              phạm tội, là ngƣời trực tiếp giao dịch với các đối tƣợng khác, trực tiếp cầm tiền

              và chia tiền cho các bị cáo khác. Trong quá trình phạm tội Q đã bàn với T và D
              để lừa chị Đỗ Thị H lên Lạng Sơn chơi, sau đó sẽ lừa chị H sang Trung Quốc
              bán, Q phân công D là bạn chị H, lợi dụng H để rủ H lên Lạng Sơn chơi và

              cùng đồng bọn bán H sang Trung Quốc, còn C là ngƣời giúp sức đắc lực trong
              vụ việc phạm tội. Trong vụ án này Q vừa là ngƣời chủ mƣu vừa là ngƣời thực

              hành đắc lực.

                     Trong thực tiễn xét xử cho thấy, có vụ đồng phạm trong đó có những
              ngƣời chủ mƣu đồng thời tham gia tích cực với vai trò là ngƣời thực hành trong

              quá trình thực hiện tội phạm. Ví dụ: Bản án số 18/2020/HSST xét xử từ ngày
              11 đến 17/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với Nguyễn Thị
              T và đồng bọn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong thời gian từ tháng 7

              đến tháng 12 năm 2019  Nguyễn Thị T cùng Phan Hồng M, Nguyễn Thị V,
              Ngô Thị C, Nguyễn Thị Q đã gặp gỡ và bàn bạc với Trần Viết Th, Nguyễn Thị

              D, Hoàng Văn N, và Nguyễn Sinh H, Nguyễn Minh Đ về việc ký kết và thực
              hiện các hợp đồng kinh tế mua bán hàng nông sản hoa quả của các đơn vị trong
              nƣớc để xuất khẩu sang Trung Quốc, rồi làm thủ tục hoàn thuế GTGT. Về vai

              trò của các bị cáo trong vụ án Toà án nhận xét: Các bị cáo T, M, V và C là
              những kẻ chủ mƣu. Cụ thể T đã có hành vi bàn bạc với V trong việc ký kết hợp

              đồng và xuất hoá đơn khống, lập bảng kê khai khống để hợp thức chứng từ đầu
              vào, ký biên bản thanh lý hợp đồng và ký biên bản giao nhận hàng hoá khống

              với khách hàng Trung Quốc để Công ty XNK Nông sản thực phẩm Hà Nội lập
              hồ sơ xin hoàn thuế nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế và đã chiếm đoạt hơn 5 tỷ
              đồng. Còn V có hành vi bàn bạc với T ký hợp đồng, xuất hoá đơn khống cho

              Công ty XNK Nông Sản thực phẩm Hà Nội, giao hàng và thanh toán tiền hàng
              với khách hàng Trung Quốc theo thoả thuận với T, lập tờ khai hải quan xuất

              khẩu khống và thuê Vũ Tiến Đ tự đi khai thác hợp đồng, lập tờ khai hải quan
              xuất khẩu để công ty XNK nông sản thực phẩm Hà Nội lập hồ sơ xin hoàn thuế

              nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT với số tiền lớn. M có hành vi, thủ đoạn
              gian dối trong việc lo tìm kiếm khách hàng Trung Quốc để bán cho Trần Viết
   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95   96