Page 149 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 149

trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống

                     chung với mình theo quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật này; 2. Con riêng
                     có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung
                     với mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Luật này". Quan hệ chăm sóc,

                     nuôi dưỡng, yêu thương giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng được
                     thể hiện ở những mối quan hệ như: Không có sự phân biệt đối xử giữa con riêng

                     của vợ hay của chồng với các con chung của họ. Bố dượng, mẹ kế coi con riêng
                     của vợ, của chồng như con ruột của mình và không dừng lại ở mặt hình thức mà
                     thể hiện trên thực tế nghĩa vụ đó. Về phía người con riêng của vợ, của chồng cũng

                     phải thực hiện trên thực tế nghĩa vụ của người con với bố dượng, mẹ kế như chính
                     cha mẹ ruột của mình. Như vậy, để con riêng và bố dượng, mẹ kế được thừa kế

                     theo pháp luật của nhau nói chung hay con riêng muốn được thừa kế thế vị của
                     bố dượng, mẹ kế nói riêngthì cả hai bên phải có nshĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng

                     nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, quy định nói trên cũng chưa cụ thể để xác
                     định như thế nào là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Điều này
                     dẫn đến có nhiều quan điểm đưa ra như: Thời gian chăm sóc nuôi dưỡng nhau

                     bao lâu thì được coi là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Không
                     sống chung nhưng chu cấp đầy đủ kinh tế thì có được gọi là chăm sóc nuôi dưỡng

                     không.... Do vậy mà ở mỗi trường hợp nhất định và với những quan điểm nhất
                     định mà chủ thể thừa kế thế vị giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế là khác nhau.

                             Ngoài các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị kể trên, pháp luật dân sự

                     còn quy định các trường hợp loại trừ thừa kế thế vị: Trường hợp vi phạm theo quy
                     định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì không được hưởng di sản thừa kế.

                     Về bản chất đây là những người mà đáng lẽ họ được hưởng di sản nhưng vì họ có
                     những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng
                     di sản. Vì vậy, họ không phải người thừa kế của người để lại di sản.


























                                                                147
   144   145   146   147   148   149   150   151   152   153   154