Page 223 - Giuakhimualuuhoangdo
P. 223
Đó là khoảng những năm sau 1975 trở đi, lúc tôi và
Ngăn làm việc chung một chỗ ở Đài truyền thanh Huế số 17
đường Đặng Dung, Thành nội. Hằng ngày, chúng tôi cùng
các anh chị khác như: nhà văn Ngụy Ngữ, hai bạn thơ Trần
Đình Sơn Cước và Phạm Tấn Hầu, có thêm các phóng viên
hoặc phát thanh viên như Nguyễn Thị Tỵ (em gái Nguyễn Đắc
Xuân), Nguyễn Ngọc Như, Nguyễn Công Thắng, Nguyễn
Mộng Hoa (hiện ở Mỹ), Nguyễn Thị Tường Vy (người bạn đời
của họa sỹ Bửu Chỉ)… đã bàn bạc công việc truyền thanh với
Ban Kỹ thuật của Đài từ sớm, vào 7 giờ rưỡi sáng đều đặn
dầu mưa hay nắng, sau đó tỏa đi các nơi khắp Huế đến trưa
chiều thường hay về tụ ở các quán cà phê quanh Đài. Thỉnh
thoảng, có Nguyễn Đính (Trần Vàng Sao), Thái Ngọc San, Văn
Hữu Tứ, Hải Bằng, Ngô Minh, Quế Lâm, Nguyễn Đông Nhật,
Nguyễn Quang Hà, Phạm Hữu Thu ghé qua chơi, rủ nhau ra
quán bác Thanh ở gần Đài uống, nói chuyện Huế xưa Huế
nay, chuyện cơm áo gạo tiền mắc mỏ, chuyện mưa ướt đất
lẫn chuyện thơ ca trên chín tầng mây, cao hứng đọc thơ
ngay ở quán, mọi người vui vẻ chứ không thấy ai phiền trách
gì. Anh Hải Bằng đọc nhiều nhất và to nhất. Ngược lại, anh
Ngăn đọc nhỏ và rất ít khi đọc ngoài quán. Thế mà, bữa nọ
một anh bạn quen với tôi đang làm việc ở Ban Tuyên huấn
Thành ủy Huế rỉ tai tôi; “Hai ba bữa trước, ông nhà thơ Lê
Văn Ngăn đọc thơ đế quốc Mỹ chi rứa?”. Lạ chi hồi đó, mới
sau 1975, ai nghe đài BBC, đài VOA hoặc đọc truyện của “đế
quốc Mỹ” là thuộc về “đối tượng cần được theo dõi”. Tôi
ngẩn người một lát rồi chợt nhớ ra, hôm ấy anh Ngăn nhắc
đến thơ Pablo Neruda, không hiểu thế nào lại dẫn tới thơ
Baudelaire. Ngăn nói thích thơ Jacques Prévert, Arthur
210