Page 216 - Sách năm 2022 - Fulltext - hieu final
P. 216

đầu dạng blốc nhánh trái là 39% và không phải blốc nhánh trái là 46%. Mục tiêu của nghiên

            cứu là đánh giá tính khả thi và kết cục của tạo nhịp vùng nhánh trái ở những bệnh nhân có
            chỉ định cho liệu pháp tái đồng bộ tim. Kết quả nghiên cứu cho thấy liệu pháp tái đồng bộ

            tim bằng tạo nhịp vùng nhánh trái thành công 85%. Thời gian tiến hành và chiếu tia lần

            lượt là 105 ± 54 và 19 ± 15 phút. Ngưỡng tạo nhịp và biên độ sóng R là 0,6 ± 0,3 V ở 0,5

            ms và 10,6 ± 6 mV và duy trì ổn định trong thời gian theo dõi trung bình 6 tháng. Giảm

            đáng kể độ rộng QRS từ 152 ± 32 xuống 137 ± 22 ms (p <0,01) và phân suất tống máu thất

            trái cải thiện từ 33 ± 10% lên 44 ± 11% (p <0,01). Các đáp ứng về lâm sàng và siêu âm
            (không nhập viện vì suy tim và cải thiện suy tim theo NYHA) được quan sát lần lượt là

            72% và 73% bệnh nhân. Các yếu tố dự báo độc lập về đáp ứng của siêu âm tim là blốc

            nhánh trái ban đầu (OR: 3,96 với KTC 95%: 1,64-9,26; p <0,01) và đường kính thất trái

            cuối tâm trương (OR: 0,62; với KTC 95%: 0,49- 0,79; p <0,01).

                  * Cắt đốt nút nhĩ thất
                  Bệnh nhân tạo nhịp vùng nhánh trái có ngưỡng tạo nhịp thấp hơn và nhận cảm tốt hơn

            bệnh nhân tạo nhịp bó His. Về mặt lý thuyết, tạo nhịp vùng nhánh trái có thể có lợi thế hơn

            tạo nhịp bó His cụ thể trong cắt đốt nút nhĩ thất. Wang và cộng sự đánh giá 86 bệnh nhân

            liên tiếp có rung nhĩ dai dẳng và suy tim có chỉ định cấy máy phá rung và phân thành 2

            nhóm. Nhóm 1 gồm những bệnh nhân không cắt đốt nút nhĩ thất, kiểm soát tần số thất tối
            ưu bằng thuốc và cấy máy phá rung (n = 31); nhóm 2 gồm bệnh nhân được tiến hành tạo

            nhịp bó His/tạo nhịp vùng nhánh trái với cấy máy phá rung và cắt đốt nút nhĩ thất (n = 52).

            Trong thời gian theo dõi, bệnh nhân thuộc nhóm 2 có tỷ lệ máy phá rung sốc không phù

            hợp thấp hơn (15,6% so với 0%, p <0,01) và các biến cố ngoại ý cũng thấp hơn nhóm 1 (p

            = 0,011). So với nhóm 1, nhóm 2 cải thiện phân suất tống máu thất trái tốt hơn và giảm thể
            tích thất trái cuối tâm thu cao hơn đáng kể (15% so với 3%, P <0,001; và 40 so với 2 mL,

            P <0,01, thứ tự tương ứng). Phân độ suy tim NYHA được cải thiện ở cả hai nhóm từ mức

            cơ bản 2,57 ± 0,68 lên 1,73 ± 0,74 ở nhóm 1 và 2,73 ± 0,59 lên 1,42 ± 0,53 ở nhóm 2 (P

            <0,01).





                                                                                                      216
   211   212   213   214   215   216   217   218   219   220   221