Page 350 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 350
332 Cẩm Phả - Đất và Người
Tình hình khai thác than ở cả 3 mỏ (Hà Tu, Cẩm Phả,
Mông Dương) của Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ trong giai
đoạn 1923 - 1935 phát triển không đều, tuy nhiên theo chiều
hướng tăng lên. Thời điểm năm 1926, tổng sản lượng khai
thác là 667,9 tấn, giảm 6 tấn so với năm 1925 (673,9 tấn),
song vẫn cao hơn so với năm 1923 (578,5 tấn) và năm 1924
(661 tấn). Tương tự như vậy, từ năm 1931 đến năm 1935, tốc
độ tăng trưởng không đều, song sản lượng vẫn cao hơn so với
giai đoạn trước.
Trong số 3 mỏ, sản lượng khai than ở mỏ Cẩm Phả là lớn
nhất, trung bình đạt 376.090 tấn/năm, trong khi mỏ Hà Tu
là 206.740 tấn/năm, mỏ Mông Dương là 108.740 tấn/năm.
Riêng năm 1928, mỏ Hà Tu có sản lượng khai thác nhảy vọt
lên tới 754.700 tấn, đứng đầu trong số 3 mỏ, gấp 1,5 lần so
với sản lượng than cao nhất của mỏ Cẩm Phả năm 1927 là
492.300 tấn. Mỏ Mông Dương đạt sản lượng khai thác than
cao nhất là 335.000 tấn vào năm 1936.
Năm 1923, sản lượng khai thác than ở mỏ Cẩm Phả đạt
391.800 tấn, gấp 3,67 lần so với mỏ Hà Tu, gấp 4,8 lần so với
mỏ Mông Dương. Sản lượng khai thác than ở mỏ Cẩm Phả
chiếm tỷ trọng trung bình 37,9% tổng sản lượng khai thác
của Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ. Số liệu cho thấy mỏ than
Cẩm Phả có trữ lượng dồi dào, được Công ty Pháp mỏ than
Bắc Kỳ tập trung đầu tư khai thác nhiều nhất. Đây cũng là
khu mỏ trọng điểm của vùng than Quảng Ninh nói riêng, của
Việt Nam nói chung.
Xuất khẩu than là hoạt động quan trọng và chủ yếu của
Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ. Thời kỳ đầu, than ở Hòn Gai -
Cẩm Phả được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Thượng Hải,

