Page 10 - 27.9 Sách trai Cầu Vồng Yên thế
P. 10

Tông (1460-1497). Nhưng tới thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực (1505-1516) thì

                  đất  nước  suy  vi hỗn  loạn, dẫn  tới  sự bùng nổ  các  phong trào  nông  dân khởi
                  nghĩa, và những cuộc xung đột, tranh chấp giữa các phe phái phong kiến.


                        Sau khi ra đời, nhà Mạc đã có những đóng góp nhất định về kinh tế, văn
                  hoá, tư tưởng, về mặt chính sách đối ngoại có hạn chế, đó cũng là sự tính toán

                  trong sách lược ứng phó mà thôi.

                        Đáng chú ý là trí thức thời này đã có nhiều biến động. Hàng loạt các quan

                  đại thần của nhà Lê theo Mạc (hơn 50 khai quốc công thần của nhà Mạc đều là

                  các nhà khoa bảng của nhà Lê), trong khi đó thì một số đã ôm lòng cô trung với
                  vua cũ, chống Mạc. Bên cạnh những trí thức từ xứ Thanh (Lê Trịnh) chạy ra Bắc

                  theo Mạc thì 1 số lại từ Bắc (nhà Mạc) vượt biên vào xứ Thanh theo Lê Trung

                  Hưng.  Một  số  từ  quê  Lê  Trịnh  vượt  sông  Gianh  vào  đàng  trong  theo  Chúa
                  Nguyễn v.v... Nhưng tất cả đều đã được coi trọng.

                        Năm 1532 sau ngày nhà Mạc lên ngôi được 5 năm thì Nguyễn Kim, tướng

                  cũ của nhà Lê đã tìm được con út Lê Chiêu Tông dựng lên làm vua, lấy niên

                  hiệu là Trang Tông. Hai bên đã chia nước thành Bắc triều và Nam triều. Công
                  cuộc chiến tranh kéo dài 60 năm, cho tới năm 1592 quân Trịnh Tùng đã đẩy bật

                  được nhà Mạc ra khởi kinh thành nhưng nhà Mạc vẫn tồn tại tới năm 1677.

                        Thời Lê Trung Hưng (1533-1788) trải qua 17 đời vua. Đó là thời kỳ về

                  danh nghĩa vẫn là vua Lê trị vì, nhưng thực quyền thì đều tập trung vào Phủ
                  chúa Trịnh và kết thúc bằng đời vua Lê Chiêu Thống (1787-1788).


                        Trong điều kiện lịch sử trên, các nhân kiệt của huyện Tân Yên đã xuất hiện
                  và có những đóng góp cho lịch sử.


                        A. CÁC QUAN VĂN XUẤT THÂN TỪ KHOA BẢNG

                        1. Ông Nguyễn Đình Tấn quê làng Mục Sơn, huyện Yên Thế (nay là thị

                  trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên) đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1538) niên hiệu
                                                                                                           3
                  Đại Chính thứ 9 thời vua Mạc Đăng Doanh, ông làm quan tới chức Thượng thư ,
                                    4
                  kiêm Đô ngự sử , Tước bá (tức là người đứng đầu Ngự sử đài, cơ quan kiểm sát,
                  thuộc hàng Tam phẩm triều đình).








                  3  Chức Thượng thư: Người đứng đầu 01 bộ của triều đình.
                  4  Đô Ngự sử: Một chức quan theo dõi, can gián giúp việc triều đình.



                                                              10
   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15