Page 221 - Maket 17-11_merged
P. 221
CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước. Việc xây dựng những cánh đồng mẫu lớn dường
như các chỉ tiêu đều giảm sút. Đến 01/7/2020 mới có 1.051 xã có cánh đồng mẫu lớn.
Theo đó, số hộ tham gia vào cánh đồng mẫu lớn có khoảng 326,34 nghìn; bình quân diện
tích 1 cánh đồng lớn khoảng 163,55 ha và có 196,9 hộ tham gia sãn xuất. Sản xuất nhỏ
phổ biến, năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không cao.
2.6 Tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn chưa được cải thiện nhiều
Sự phát triển kinh tế-xã hội nông thôn và sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp bộc lộ
ngày càng rõ những yếu kém về bảo vệ môi trường. Việc thu gom, xử lý chất thải của
khu công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ và rác thải, nước thải sinh hoạt của
dân cư trên địa bàn nông thôn còn nhiều bất cập. Cả nước còn 2.095 xã và 27.647 thôn
không tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt, chiếm 25,25% tổng số xã và 41,76% tổng số
thôn. Tình trạng thải bỏ chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật ngay tại ruộng, hồ ao, kênh
mương, sông suối khá phổ biến. Kết quả điều tra còn cho thấy, năm 2020, cả nước có
4.096 xã không có điểm thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật. Nhìn tổng thể,
quá trình chuyển đổi kinh tế nông nghiệp nông thôn có thể rút ra, sự phát triển và thành
tựu nông nghiệp đạt được đã phải trả giá đắt về suy thoái môi trường và hệ sinh thái; hạn
chế này đã tác động tiêu cực đến tính ổn định của các hệ thống sản xuất nông nghiệp. Hệ
thống nông lâm thủy sản nước nhà dứng trước nhiều khó khăn thách thức.
2.7 Chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn còn hạn chế
Thách thức và mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng đội ngũ nông dân hiện đại,
chuyên nghiệp với thực trạng thu nhập thấp của lao động nông nghiệp. Do việc làm trong
nông nghiệp có thu nhập thấp, trong khi cơ hội việc làm lại tốt hơn từ công nghiệp, dịch
vụ và xuất khẩu, nên số đông lao động trẻ không muốn làm nông nghiệp. Số liệu thống
kê cho thấy, lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn, nhưng cơ cấu lao động lại biến
động mạnh, số đông ở độ tuổi trung niên và người già trong khi trình độ lao động có tay
nghề cao rất thấp. Nếu nông nghiệp vẫn sản xuất quy mô nhỏ, doanh thu trên 1 đơn vị
thấp và thu nhập ngày càng giảm sẽ dịch chuyển mạnh lao động trẻ ra khỏi khu vực nông
thôn và như vậy, mục tiêu xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, hiện đại theo tinh
thần Nghị quyết số 26-NQ/TW sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại quy mô lớn, cạnh tranh
và có giá trị gia tăng cao với thực trạng đất đai manh mún, sản xuất quy mô nhỏ đang là
nguy cơ hiện hữu. Chính sách đất đai phù hợp với lao động và quản lý của hộ gia đình
quy mô nhỏ, đã tạo đột phá về phát triển nông nghiệp từ sau khoán 10. Sau 13 năm thực
hiện Nghị quyết 26-NQ/TW, lực lượng sản xuất nông nghiệp đã lớn mạnh, thay đổi cả
về quy mô và trình độ công nghệ, trình độ quản trị đang đặt ra những vấn đề rộng lớn
về quan hệ đất đai. Do đất đai sản xuất quy mô nhỏ, manh mún nên vùng sản xuất hàng
hóa tập trung, kinh tế nông trại quy mô lớn rất khó hình thành và phát triển bền vững,
219