Page 250 - Maket 17-11_merged
P. 250

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

           tiêu cực, thậm chí kìm hãm đà chất lượng tăng trưởng, phát triển của nông nghiệp, nông
           thôn. Trong giai đoạn tới, nhu cầu tất yếu là phải nâng cao năng lực của công nghiệp cơ khí
           chế tạo và các ngành hỗ trợ cung ứng đầu vào cho nông nghiệp, nông thôn.
               8.1 Vấn đề của cung ứng máy móc, trang thiết bị đầu vào phục vụ CNH, HĐH

               Việc cung ứng trang thiết bị, máy móc, vật tư cho nông nghiệp, nông thôn nhiều
           năm qua gặp những vướng mắc, hạn chế, do ngành công nghiệp cơ khí chế tạo trong
           nước yếu kém có hệ thống. Đánh giá từ khi Đổi mới (1986) đến nay, thấy rằng ngay
           trong những năm đầu, ngành cơ khí nói chung, cơ khí nông nghiệp nói riêng bị tác động
           mạnh nhất. Đầu tiên do thị trường cơ giới hóa bị mất đi một cách cơ học, Cùng với khoán
           hộ bung ra là “cơ giới hóa toàn cuốc”. Hệ thống trạm máy kéo bị giải thể. Công nghiệp
           cơ khí nông nghiệp mất phương hướng, phải chuyển sang cơ chế thị trường, phải làm
           nhiều ngành nghề khác để tồn tại. Đến khi cơ giới hóa nông nghiệp được phục hồi và
           từng bước phát triển, nhưng chủ yếu quy mô nhỏ, ngành công nghiệp chế tạo máy không
           kịp trở tay, thiếu nền tảng công nghệ, thiếu nguồn lực phát triển để cạnh tranh được với
           máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản.

               Cơ cấu doanh nghiệp nhỏ lẻ, phân tán. Hơn 30 năm qua, đội ngũ doanh nghiệp cơ
           khí chế tạo máy phát triển chậm chạp. Chủ lực là TCTy Máy động lực và máy nông ng-
           hiệp Việt Nam (VEAM) thuộc Bộ Công Thương, gồm 13 công ty thành viên và 02 Viện
           nghiên cứu. Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý 30 đơn vị cơ khí chuyên ngành. Bên cạnh
           đó còn có lực lượng ngoài quốc doanh, khoảng 70 doanh nghiệp. Theo cơ cấu, nhiều nhất
           là các Công ty hợp danh, liên doanh (chiếm 26,1%); doanh nghiệp tư nhân (16,3%). Các
           DNNN chỉ còn 2,2%. Các HTX cơ khí cũng chỉ chiếm 3,3%. Trong tổng số các cơ sở
           chế tạo máy và thiết bị phục vụ nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ (có từ 10 đến
           200 lao động) là chủ yếu, chiếm 53,2%. Doanh nhiệp siêu nhỏ (dưới 10 LĐ) là 35,8%.
           Doanh nghiệp vừa (200-300 LĐ) là 4,4%. Còn lại là doanh nghiệp lớn (trên 300 LĐ) chỉ
           có 6,6% (Chu Văn Thiện, 2016)

               Năng lực công nghệ của ngành công nghiệp chế tạo máy nông nghiệp còn lạc hậu,
           chậm đổi mới và ứng dụng công nghệ. Về trang thiết bị chế tạo, vẫn sử dụng nhiều chủng
           loại đã cũ (chiếm 46,5%); đã lạc hậu (5,8%). Trang thiết bị chế tạo hiện đại chiếm tỷ lệ
           rất nhỏ (4,7%). Tuy tỷ lệ trang thiết bị tiên tiến (chiếm 41,9%), nhưng số trang thiết bị
           này chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Đài Loan, độ chính xác không cao, dẫn đến chất lượng
           sản phẩm chế tạo còn thấp: i) Về đổi mới và ứng dụng công nghệ, chỉ có 38,8% cơ sở
           thực hiện đổi mới công nghệ, trong đó chỉ có 8% cơ sở đổi mới nhờ ứng dụng kết quả
           nghiên cứu KHCN. Còn lại phần lớn (61,2%) không có các hoạt động đổi mới và ứng
           dụng công nghệ; ii) Về năng lực thiết kế, hơn 50% doanh nghiệp thiết kế sản phẩm bằng
           thủ công, chỉ có số ít mua phần mềm thiết kế (6,8%) và dùng phần mềm thiết kế (42%);
           iii) Về năng lực chế tạo, chỉ có 3,4% doanh nghiệp có năng lực chế tạo loạt lớn; 40,2%


                                                248
   245   246   247   248   249   250   251   252   253   254   255