Page 245 - Maket 17-11_merged
P. 245

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

               Cùng với ĐTH, để thu hút đầu tư, các địa phương ồ ạt mở khu công nghiệp, phần
           lớn là lấy đất nông nghiệp, đa phần là “đất có cấu tượng”, thậm chí “đất bờ xôi, ruộng
           mật”. Đất mới chuyển đổi này thường bị sử dụng lãng phí do thiếu quy hoạch đồng bộ,
           tỷ lệ lấp đầy nhiều khu công nghiệp rất thấp. Phân tích kỹ sử chuyển dịch đất đai, thấy
           rằng 75% đất nông nghiệp bị thu hồi để giao cho các dự án xây dựng nhà ở; 15% để sử
           dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh, tức là cho công nghiệp và dịch vụ. Như vậy,
           việc thu từ đất ở nước ta bị lệch sang hướng thu từ giá trị tăng thêm của đất do chuyển
           từ đất nông nghiệp sang đất ở.
               Khi đất đai bị thu hẹp, nông dân bị mất đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất tạo ra thu
           nhập của nông hộ và của cải xã hội, lao động bị dôi dư, mất việc làm. Theo ước tính thì
           mỗi ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ làm mất đi việc làm của 14-
           16 lao động nông thôn. Những lao động bị mất việc làm nông nghiệp này bắt buộc phải
           di chuyển tự phát về các thành phố hoặc đô thị lớn tìm kiếm việc làm khác.
               5.3.3 Giải quyết các vấn đề về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
               Bên cạnh việc thu hẹp đất nông nghiệp do ĐTH, CNH, tiến trình mở rộng quy mô
           đất sản xuất nông nghiệp của cả nước đã gần đi tới giới hạn và sẽ giảm dần trong tương
           lai. Trong thời gian trước đây, diện tích đất nông nghiệp nước ta có xu hướng tăng lên
           nhờ phát triển hệ thống hạ tầng thủy lợi và quá trình khai hoang đất trống, đồi núi trọc.
           Tuy nhiên, tốc độ tăng này đã giảm dần. Số liệu thống kê về hiện trạng sử dụng đất cho
           thấy, sau một giai đoạn dài tăng trưởng từ năm 2000-2015 với mức tăng hơn 30%, đến
           giai đoạn 2015-2018 tổng diện tích đất nông nghiệp đã có xu hướng giảm nhẹ. Cơ cấu
           loại đất nông nghiệp cũng có những thay đổi khá rõ rệt.
               Mặc dù đã có nhiều chính sách thúc đẩy đồn điền đổi thửa, tích tụ đất đai, nhưng
           quy mô đất nông nghiệp của các hộ nông dân không tăng theo thời gian.
               Trong giai đoạn (2006-2014), số mảnh đã giảm dần từ 4,6 mảnh/hộ xuống còn 4
           mảnh/hộ. Trong giai đoạn (2008-2018), số mảnh đất sản xuất nông nghiệp (cây hàng
           năm và cây lâu năm) đã giảm dần từ 3,9 mảnh/hộ xuống còn 3 mảnh/hộ. Tuy diện tích
           đất bình quân mảnh và bình quân hộ tăng nhẹ, nhưng tổng diện tích đất trung bình của hộ
           giảm đi. Đa phần các hộ chỉ có quy mô ở mức nhỏ hơn 0,5 ha đất nông nghiệp, nhóm có
           quy mô lớn nhất (trên 2 ha) chỉ chiếm dưới 6%. So sánh với các quốc gia trong ASEAN
           cho thấy diện tích canh tác bình quân mỗi hộ nông nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 0,34 ha,
           chỉ bằng khoảng một nửa (0,6 - 0,8 lần) so với Campuchia, Myanmar hay Philippines và
           thấp hơn khá nhiều so với Thái Lan. Năm 2013, Thái Lan có khoảng 25% hộ nông dân
           có dưới 1 ha đất nông nghiệp, 40% từ 1 đến 3 ha và 35% trên 03 ha. Nhóm có trên 03 ha
           chiếm khoảng 70% tổng số đất canh tác (WB 2016).
               Hiệu quả sản xuất nông nghiệp tăng theo quy mô đất và các yếu tố ảnh hưởng tích
           cực đến hiệu quả gồm chất lượng đất, tuổi và trình độ của chủ hộ, và khu vực.

                                                243
   240   241   242   243   244   245   246   247   248   249   250