Page 52 - LSDB xa Xuan Thanh
P. 52
Đến đời Nguyễn, nạn chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ,
cường hào phát triển hết sức nghiêm trọng, chúng dùng mọi
thủ đoạn để chiếm đoạt ruộng đất của nông dân nên phần
lớn ruộng đất của làng xã đều tập trung trong tay bọn chúng.
Vì vậy, trong số 1.362 mẫu ruộng, có tới 340 mẫu tư điền,
số ruộng này đều là ruộng tốt và gần nhà (gọi là mật điền),
hầu hết nằm trong tay địa chủ, cường hào ở địa phương. Số
ruộng công còn lại chia cho dân phần nhiều thuộc những
chân ruộng cao “ghềnh khô chó đẻ” như Sa Hải, Thượng
Liệt, Tán Voi, Kim Xuyên; hoặc những chân ruộng trũng
như Cổ Nhuế, xa tới 6 - 7 km như Tạo Bể... Số địa chủ chiếm
trên 20 mẫu như: Trịnh Bá Đản (làng Văn Phú), Đào Văn
Khôi (làng Liêu Thượng), Đinh Mẫn Cấp (làng Đông An),
Nguyễn Văn Luận (làng Hạ Miêu)... Riêng Tống Văn Cẩm
(làng Cát Xuyên) chiếm đến 80 mẫu kể cả ruộng ở một số
nơi khác. Trong Nhân dân lúc đó đã xuất hiện một vế của
câu đối: “Hương Đản, Hương Cấp, Hương Khôi, ba xã ba
hương ba sân gạch”. Thời đó, có được chiếc sân gạch không
phải dễ dàng. Cũng chưa thấy có ai làm tiếp vế thứ hai của
câu đối.
Một số địa chủ làng Hành Thiện (nay thuộc xã Xuân
Hồng) đến chiếm hàng trăm mẫu đất như: Cả Tề, Cử Túc,
Tú Dục, Đồ Thị... Số ruộng còn lại của người nông dân lại
phải cầm bán để nộp sưu thuế cho Nhà nước; cuối cùng
người nông dân phải nhận ruộng cấy rẽ cho địa chủ để nộp
tô. Ngoài khoản tô, thường là một nửa số thu hoạch, người
nông dân phải chịu nhiều khoản phí tổn khác trong những
dịp giỗ tết đối với địa chủ, mỗi mẫu từ 3 - 5 thùng thóc (mỗi
thùng tương đương 10 kg thóc) cho bọn quá điền - tay chân
51