Page 53 - LSDB xa Xuan Thanh
P. 53
của địa chủ - thông qua bọn này người dân mới được nhận
ruộng để cấy.
Về sưu thuế: Thời nhà Lê, thuế điền mỗi mẫu ruộng hạng
nhất nộp 60 thùng lúa và 6 tiền, hạng hai 40 thùng lúa và
5 tiền, hạng ba 30 thùng lúa và 3 tiền. Năm 1721, chính
quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài đã tăng tô thuế lên một cách
khủng khiếp, thu thuế theo nguyên tắc: “Lượng trước số chi
rồi mới định số thu cho dân”, Nhân dân phải đóng không hạn
định để cung ứng mọi nhu cầu của Nhà nước phong kiến. Có
những loại ruộng đất không sản xuất được như đồng chua
nước mặn, đất bụi bờ cằn cỗi... cũng phải đóng thuế. Đến đời
vua Gia Long, năm 1803, lệ thuế quy định theo đơn vị mẫu
như sau:
Ruộng công, đối với loại nhất: 120 bát; loại hai: 84 bát, loại
ba: 50 bát.
Ruộng tư, đối với loại nhất: 40 bát, loại hai: 30 bát, loại
ba: 20 bát.
Những người có ruộng tư chủ yếu là giai cấp địa chủ, được
một chế độ thuế nhẹ hơn rất nhiều so với những người nông
dân cày ruộng đất công.
Thời Pháp đô hộ, thuế thu bằng tiền, mỗi mẫu đất đóng 0,5 -
2,3 đồng, mỗi mẫu ruộng từ 1 - 1,9 đồng (tiền Đông Dương).
Thuế đinh, đời nhà Lê, mỗi người từ 18 - 60 tuổi, hằng
năm nộp 8 tiền, sau tăng lên 1 quan 2 tiền. Đến thế kỷ XVIII,
chính quyền họ Trịnh thi hành phép “bình lệ”, nghĩa là kiểm
kê dân số một lần rồi ấn định số thuế cố định cho các xã, vì
vậy Nhân dân phải đóng thuế cho những người đã chết hoặc
đã phiêu bạt đi nơi khác. Thời Pháp đô hộ nước ta, mỗi người
52

